Anh Hai

 

Anh Hai

– Anh Hai gọi nghỉ đi, mình chơi với cả nhà, vui lắm

– Baybee, mình không nên gọi nghỉ, khi nào mình muốn
nghỉ thì phải xin phép trước, người ta sẽ xếp thời khóa biểu cho người khác làm
việc, người ta chia thời gian cho mình, mình lại gọi nghỉ để đi chơi như vậy là
không có trách nhiệm.

Mẩu đối thoại
cuả hai anh em ghi nhớ trong lòng tôi cho đến bây giờ , Anh Hai dạy cho em bé một
bài học trách nhiện và bổn phận từ thuở hắn chỉ mười sáu tuổi đầu.

– Bố , Anh Hai không thích làm việc cho cửa hàng nầy
nữa đâu.

– Tại sao vậy ?  Bộ họ kỳ thị  hay là
xử ép con hở ?

– Không Bố à , nhưng họ muốn con phải đề nghị bán
cho  khách hàng những hệ thống  máy vi tính  mới rất đắt tiền, nhưng mình không bán như vậy
được, vì khách hàng không cần loại máy đó, họ chỉ cần máy vừa tuí tiền, chức
năng đủ dùng cho công việc họ muốn làm thôi, người ta tin mới hỏi mình mà mình
bán thứ đắt tiền không cần thiết như vậy là nói dối đó Bố.

– Nghỉ, không cần phải làm nơi đó nữa, Bố chưa chết
hay tàn tật mà ,con ở nhà đi học được rồi , Bố vẫn đi làm còn dư sức nuôi con.
Chỗ làm không lương thiện, bỏ ngay…

– Bố , mình phải báo với họ là mình sẽ nghỉ  sau hai tuần để học chuẩn bị kiếm người khác,
mình không muốn bỏ công việc ngang , Bố noí…

– Thì Bố nói không cần phải đi làm, đi học quan trọng
hơn , còn có cả đời để làm mà. Mình phải làm sao không trái lương tâm thôi

– Dạ, Bố , mai mình nói với  ông xếp hén.

– Bố cho anh Hai tiền, đi xem xi nê với bạn đi

– Bố , mình có tiền mà , hơn nữa mình ở nhà chơi Video
game , hay đọc sách cũng được mà

– Nhưng ở nhà hoài có buồn không?

-Không sao đâu Bố. Mình có nhiều thứ để chơi lắm.

– Nhưng phải nói với Bố khi nào cần tiền.

– Bố, anh Hai biết mà , mình chưa cần tiền đâu Bố ơi
! Hôm qua Best Buy gọi đi phỏng vấn đó Bố, chắc họ sẽ mướn mình vài tuần nữa
thôi

– Lại là chổ buôn bán máy vi tính, Bố tưởng là anh
Hai không thích làm những chổ nầy

– Không, làm trong khu sửa chữa Bố à. Không phả đứng
bán bên ngoài, khi nào khách hàng đã  mua máy rồi thì mình  cài đạt Software và chỉ dẫn cách xử dụng cho họ,
máy bị hư hỏng thì mình sửa chữa lại…

– Bố đã nói rồi, đi
làm việc để học kinh nghiệm thêm cũng tốt , nhưng học hành quan trọng hơn, Bố
không muốn chuyện học bị xao lãng, có cần thêm tiền thì Bố cho, chớ đừng ham tiền
mà xin đi làm bây giờ, học xong rồi thì có cả đời để đi làm.

– Dạ, Bố , mình biết mà.

– Anh Hai, bài nầy Em bé không hiểu

– Baybee, phải giải từng giai đoạn một ,  trước hết làm như vầy nè …Thấy cái đó chưa ?

–  Thấy rồi
Anh Hai, vậy mà thầy giảng em bé lại  không hiểu, hừ !!

– Em bé không chú ý lúc đó, ngồi  lo ra trong lớp chứ gì , sao lại không hiểu ,
dễ quá mà..

– Không phải vậy đâu, tại Anh Hai kiên nhẫn, và giải
thích rõ ràng hơn , Phương cũng nói anh hai kiên nhẫn như Ông Thánh

[ Không
riêng gì Phương , Mợ, bác Lộc , bà Gwen…và ngay cả Mẹ cũng biết Anh Hai luôn kiên
nhẫn, rà rất cẩn thận kia mà… ]

– Anh Hai ,
IIlinois  Institude of technology  chỉ nhận có tám người vào chương trình nầy thôi.
Mèn! tới ba trăm đồng tiền lệ phí lận chớ đâu phải không tốn, vậy  mà có cả ngàn người nộp đơn lận

– Baybee, phải nộp đơn
đi chứ, không cần biết người khác ra sao, mình không nộp thì đâu biết mình có
cơ hội vào hay không. Anh Hai tin tưởng Em bé giỏi lắm đó , cứ  nộp thử xem, anh Hai cho em tiền đóng lệ phí

– Em có tiền rồi, chỉ không biết mình có đủ điều kiện
để vào không.

– Mình đã nhất quyết thì phải làm chứ, không sau nầy
lại hối hận.

Vũ Thị Thiên Thư

Mưa Mùa

 

 

 

Mưa mùa

Đôi chân bé nhỏ chạy lúp xúp theo Dì, đôi mắt sợ hãi ngước lên trời, trông theo đám mây đen kéo nhau bay vội vã, phút chốc như tấm màn che kín một góc trời. Dì bước chân nhanh thoăn thoắt, hai tay gom những tàu lá chuối xanh mượt đang trải ra phơi bên bờ ruộng đậu, Trân vừa cúi xuống nhặt một tàu lá lên, từng cơn giông gió quay quắt điên cuồng, rung chuyển những cành cây, tiếng sấm đầu mùa mưa tháng tư như tiếng bom đạn nổ ngang đầu, thân cây tre nhỏ gác ngang hai bờ mương lạn cũng run rẫy từng hồi dưới chân vội vã, Trân bịt kín hai tai, níu chân dì sướt mướt

– Con không đi, con không đi nữa đâu.

– Đừng sợ, có Dì bên cạnh, con ngồi xuống đây, chỉ còn một ôm nữa thôi, mình vào trại bà Tám trú mưa.

Mưa như trút nước, sấm chớp liên hồi, Dì ôm Trân vào lòng, mở khăn cột tóc ra lau mấy giọt nước mắt còn đọng quanh mi, tiếng mưa như điên cuồng quật vào mái lá, mấy cái cột tre lắc lư, bụi chuối phía sau hè trại oằn oại , hàng cây sua đũa bên bờ mương cúi rạp mình , Trân nhìn Dì

– Có khi nào giông cuốn luôn mái lá không Dì?

– Giông đầu mùa một tí nữa thôi, sẽ qua cơn, con ăn mạch nha nhé, Dì mang theo cho con nè.

Trân an tâm chui vào ngồi trong lòng Dì, miệng mút ngon lành viên kẹo mạch nha ngọt ngào

Giỗ Ngoại đầu mùa mưa, hàng năm phải vào tận vườn bà Tám Hiện để đốn lá chuối. Trân nhất định xin theo, trong lúc Dì còn bận cắt lá và đem phơi thì Trân lang thang thọc mấy hang cua, hay vớt mấy con ốc bưu to tướng cho vào thùng, chiều nay về Trân sẽ xin Dì cho vào bếp lửa than nướng lên ăn. Khu vườn chuối còn bao nhiêu là bí mật Trân chưa kịp khám phá. Cây ổi sai oằn nằm cạnh bờ ao, trái nhỏ ruột hồng, Dì bảo là ổi lộn kiếp

– Dì ơi, sao lại gọi là ổi lộn kiếp ?

– Tức là ổi mọc lên từ phân chim, sau khi chim ăn trái ổi chín cây, hột ổi không tiêu hóa rơi xuống đất mọc trở lại thành cây.

– Ghê quá, thôi không ăn nữa đâu.

Trân lớn lên bên quê Nội, mỗi năm chỉ được về Ngoại đôi lần giỗ Tết. Quê Ngoại là thiên đường của tuổi thơ, của thương vội yêu vàng.

* Cháu bà Nội, tội bà Ngoại *

Mẹ lớn nhất trong mấy chị em, Trân là cháu Ngoại đầu đàn, bao nhiêu thương yêu đổ dồn lại, lúc lên ba Ngoại còn ôm vào võng ru ngủ, lên năm Dì, Cậu còn thi nhau cõng qua cầu. Mùa mưa theo cậu ra vườn nhặt ốc, bắt cua đồng, tháng chạp theo ra ruộng ngủ giữ lúa, tát đìa, bắt mấy chú rùa con mang về bỏ vào nia, chọc cho chúng thi nhau bò, tháng tư vỡ đất cày bắt dế mèn, dế cơm !

Không còn nhớ bắt đầu từ bao giờ, quê Ngoại luôn thiết tha quyến luyến. Ngôi nhà ba gian lợp lá, vách gỗ xoài, nằm bên cạnh con sông nhỏ, nước mùa khô chỉ còn lại hơn thước chiều ngang. bờ sông bày hai bãi bùn đen, Trân thường thơ thẩn đếm mấy con thòi lòi trơ mắt ngó láo liên, mấy con còng già giơ cao đôi càng đỏ chạy tung tăng. Từ thềm nhà hai hàng tán đá xanh vuông vắn lót dọc theo dường xuống bến sông, nơi cây cầu ván bắt lơ lững, một nửa cuối cùng nối vào bằng một thân cây dừa già, Ngoại đẽo thành những nấc để làm chổ bám chân, thân cây luôn chìm sâu trong nước, chỉ bày ra vào mùa khô, khi nước sông rút gần cạn đáy. Cây cầu dừa mỗi khi bước xuống xuống phải lột dép ra cầm trên tay , hai bàn chân từng bước một, bám chặt xuống mắc khất, chỉ cần sẩy chân là rơi bệt xuống, bùn đen rất mềm, không đau , nhưng cũng đủ ngượng chín người.

Mùa gió bấc, Dì dậy nhóm bếp từ khi tiếng gà chưa gáy sáng, nhặt một ít lá dừa khô, xếp làm đôi, kê vào ngọn dèn dầu leo lét, chờ cho ngọn lửa vừa bén, cho vào lò, đổ lên một máng trấu, tiếng lách tách kêu vui từ ngọn lửa hồng vừa bén , mặt Dì dưới ánh lửa chập chờn sáng như ánh mặt trời mới mọc.Hàng năm, Dì bắt đầu tráng bánh từ đầu tháng chạp, bánh tráng đơn giản chỉ là thứ quà Tết đặc biệt của quê Ngoại, sau nầy Trân mới hiểu nhiều hơn , với Dì , đó là chi phí tiêu dùng cho ngày Tết, làm quà cáp kiến biếu hai bên họ hàng !

Tháng chạp, năm nào được theo Mẹ về Ngoại là cả một niềm hân hoan, hạnh phúc. Sáng sớm dậy, gió bấc gay lạnh, múc vội gáo nước trong lu, Dì với tay lấy ấm nước nóng phía sau lò tráng bánh pha thêm vào cho Trân rửa mặt. Lạnh thì đã có ống khói xây gạch tô đất bùn làm thành lò sưởi, hay đến đứng tựa bên miệng lò, giã vờ canh lửa, chờ cho viền trấu vòng quanh cháy đỏ, dùng thanh sắt dài và mỏng thọc vào khều ngang nhẹ nhàng, xúc một máng trấu khô cho vào, rồi mang cái thúng con chạy vào bồ xúc thêm một thúng nữa đổ cho đầy cái cần xé bên cạnh. Dì chỉ khen một tiếng giỏi giắn là không cần chờ nhắc nhở Trân đã lăng xoăng chạy đi ngay. Bao giờ đói bụng, chỉ giã vờ hỏi

– Ngoại ơi! Bánh nầy rách rồi, con xếp lại thành bánh ướt nhé .

Bánh tráng quê Ngoại nổi tiếng, vừa mỏng vừa dai. Ngoại chọn lúa từ vụ mùa trong năm, đến tháng chạp mang di xay thành gạo, nhặt hết thóc lúa lẫn lộn trong gạo rồi cho vào chậu ngâm qua hai đêm ,xả nước cho thật sạch nhiều lần ,rồi mới xay thành bột, lại tẻ nước và pha lại cho đúng lượng trước khi mang ra tráng bánh.Lò dùng để tráng bánh xây bằng gạch nung, có ống khói cao, miệng lò lót những thanh sắt mỏng nằm ngang như từng nấc thang dể lấy không khí cũng như chặn không cho trấu đổ ào ạt xuống làm ngột lữa . Trên mặt lò khoét hai lổ trống làm bếp, bếp trước đặt một cái chảo đụng thật to, bên vành chảo là một khung tròn bằng đất nung, trên miệng giăng một mảnh vải làm khuôn, bốn góc và bên cạnh khuôn vải vuông căng những sợi dây dài cột lại bằng gạch nung, nặng nhẹ tùy theo góc độ, vì khung vải phải căng thật thẳng mới có thể tráng bánh được. Phía sau là một bếp nhỏ hơn, thường để giải nhiệt hay đun nước sôi, nấu nướng thức ăn trong ngày cho đở tốn thêm củi lửa. vì sau khi đã đốt lò thì thường phải thay phiên nhau tráng bánh liên tục để phơi cho kịp nắng.Dì ngồi bên lò từ khi trời chưa rạng, bánh chín mang ra trải lên trên vĩ đan bằng lá dừa , chồng lại thành từng cao, chờ cho đến lúc mặt trời lên, màn sương sớm tan đi thì mang vĩ ra phơi. Thường, nắng tốt, chỉ mất chừng nửa ngày thì bánh khô, mang vào gở từng cái, đếm thành chục rồi cột lại, công việc nhẹ nhàng nhưng bận rộn suốt ngày. Lò tráng bánh xây trên khoảng sân vuông, cạnh con rạch nhỏ bên hông nhà, một hàng khạp da bò lớn kê dọc theo cho tiện việc mang nước lên, hàng năm sắp đến tháng chạp, chỉ cần tu bổ lại, đốn thêm lá dừa đan vĩ mới .Sau mỗi mùa tráng bánh Ngoại phải tháo mấy thanh sắt mỏng ở miệng lò ra , mang cất kỷ tránh nắng mưa chóng rỉ sét , chờ đến mùa sang năm, và trước khi mở lò Ngoại thường cúng kiến rất cẩn thận, mỗi mùng ba là ngày Tết nhà, Ngoại luôn nhắc bầy con cháu mang giấy vàng dán vào ống khói để mừng Tết, không được quên, ông lò nổi giận sẽ cho lửa cháy không đều, bánh tráng hỏng, thất mùa !.

Mỗi năm Dì tráng ba thứ bánh khác nhau, loại bánh tráng trắng, mỏng như lụa, dùng để nhúng nước cuốn gỏi, cá lóc nướng trui, dưa cải chua xào … Gần Tết, sau khi lúa mùa đã gặt phơi xong, cũng là muà tát đìa, cá lóc, cá trê, cá rô, cá sặc, Ngoại mang về xẻ khô, làm mắm hay chứa lại trong lu chờ con cháu về ăn Tết. Cứ mỗi lần giỗ Tết không thể thiếu món cá lóc nướng trui. Ngoại đốn sẵn tre già, chẻ thành que, một đầu chuốc nhọn, khi mang cá lóc đi nướng thì xuyên từ miệng cá xuống đuôi, cắm xuống đất cạnh bờ sông, đầu cá nằm dưới, phủ lên một ôm rơm khô và đốt lửa, canh cho đến lúc tàn lửa, khều tro than và lấy nguyên xiên cá ra, cạo bỏ lớp vẫy đã cháy đen, mang vào cuốn bánh tráng với rau húng quế, xà lách non, chấm vào nước mắm pha với me chua ngọt. Chỉ nghĩ đến đã thấy cồn cào nhung nhớ.

Bánh tráng dừa là loại bánh dầy hơn, có lẫn mè, dùng để nướng và cùng ăn với bánh phồng nếp. Ngoại thường ngâm mộng nếp mới nấu thành mạch nha để dành ăn trong năm, Trân mê lắm mạch nha kéo thành sợi trên bánh tráng dừa mới nướng nóng hổi, mấy chục năm sau, những ngày lớn khôn, tha phương, bánh kẹo đầy dẫy trong ngày đầu năm, vẫn không thể quên món ăn mộc mạc do chính bàn tay Ngoại.

Bánh tráng ngọt mỏng hơn, dùng đường cát, nước cốt dừa,và mè trộn lẫn trong bột sau khi bánh khô rất dẻo, mấy chị em mang ra cuộn lại thành từng ống như điếu thuốc giả làm ngưới lớn phì phà . Bánh ướt ngọt là món không thể quên được, Trân bao giờ cũng nhắc Dì ngâm đậu xanh bóc vỏ làm nhân bánh ướt, đậu nấu chín trộn với dừa rám vỏ bào sợi, bánh vừa tráng xong, cho nhân vào, xếp lại thành từng mảnh dẹp dài hơn gang tay, khi ăn thường cuốn tròn lại, chấm muối mè rang vàng giã nhỏ ,thật là đơn giản, thật thà nhưng mấy chục năm qua vẫn nhớ.

Dì như cái bóng thân quen, mỗi mùa mỗi thứ, bao giờ về quê cũng sắp sẳn những thức ăn Trân ưa thích. Những trò chơi hàng ngày, tập bơi trên chiếc xuồng ba lá trong con rạch nhỏ đầy bóng cây xanh, cây dầm con Ngoại chuốc bằng thanh gỗ thật mỏng, bảng dẹp gần bằng nửa gang tay người lớn, tay cầm nhỏ lại cho vừa bàn tay , cầm cây dầm xinh xắn , ngồi trước mũi xuồng khua nước, vọc nước nhiều hơn bơi, cây dầm nhỏ như bàn tay thì sức nào mà đưa đẩy? Dì luôn nhắc Trân cẩn thận, sợ lao chao rồi rơi xuống nước.

Sang mùa nước nổi, trời nước bát ngát mênh mông, sóng lúa xạ lao xao, nước trắng xoá đến tận chân trời, từng chòm cây xanh trên gò cao như vết chấm phá điểm trên nền tranh lụa trắng, ngồi trên chiếc xuồng con con, đi từ liên tỉnh lộ về, Dì thường chống tắt ngang ruộng luá, dọc theo bờ ven, ranh giới cho nhửng thủa ruộng xanh là hai hàng điên điển, thân cây nhỏ mong manh, nhánh trĩu nặng từng chùm hoa vàng rực rỡ.

– Dì ơi! Hái cho Trân chùm hoa vàng kia đi

– Ngồi yên đó, Dì sẽ dừng lại, coi chừng nghiêng xuồng rơi xuống uống một bụng nước đồng bây giờ, chổ ruộng nầy sâu lắm .

Dì chống dầm xuống, giữ cho xuồng nằm yên, lột nón lá và lật ngữa ra ,hái từng chùm hoa vàng, vừa hái vừa giải thích là hoa điên điển trộn gỏi chua, hay làm nhân bánh xèo, xào thịt nạc cũng ngon lắm. Khi đi ngang đầm nước, nhìn hoa súng dại đang khoe màu, Dì lại ngưng dầm, nhổ một bó cho Trân. Bông súng ma thân màu xanh, hoa màu trắng nhụy vàng mơ, bông súng dại thân màu tía, hoa màu hồng cánh sen nhụy trắng. Tướt bỏ vỏ ngoài, thân cây bông súng bên trong rất dòn, Ngoại thường trộn sổi ăn mắm sặc kho, hay nấu canh chua cá. Dì dạy cho Trân cách lột cánh hoa súng, bên trong đài hoa là trái nhỏ ,có hột thật mịn, ăn vào nhơn nhớt. Trên đường về còn vớt thêm được một mớ rong mã đề, lá dài lằn ngoằn, trái nhỏ nhọn như trái cà na, vỏ bao quanh có khía như mướp. Trái mã đề ăn vào cũng nhớt như hoa súng, nhưng vị ngọt hơn.Chỉ con đường về nhà đã chứa bao nhiêu kỳ hoa dị thảo của tuổi thơ, cả một kho tàng vô giá, Trân chỉ muốn được đi hoài, đi mãi, đi theo màng nước mênh mông và sóng lúa chập chùng .

Buổi tối, lúc Dì ngồi may, Trân lân la chơi bên cạnh, trong tiếng kót két của chân đạp máy may nhịp nhàng. Ngọn đèn dầu leo lét soi cái bóng dài ngoằn lên vách, chắp hai bàn tay lại, đùa với bóng mình, khi thì như người đàn bà đi chợ, khi thì cánh bướm bay chập chờn hay cô thiên nga dỏm dáng .Trò chơi thật đơn sơ chỉ cần ngọn đèn và đôi bàn tay di động soi bóng in lên vách , không gian thật bình yên, thỉnh thoảng tiếng chắt lưởi của con thằn lằn tiếc của nảo nề trên vách ván, pha vào tiếng tắc kè chậm rãi trong góc nhà .Chán chê, Trân leo lên cái võng do chính tay Ngoại thắt lại bằng sợi vải thừa Dì dành dụm bấy lâu.

– Dì ơi ! Dì hát ví dầu đi

Dì vói tay đong đưa cái võng nhịp nhàng, đuổi bầy muổi đói vo ve, tiếng Dì hát ru thật nhẹ nhàng :

Ví dầu cầu ván đóng đinh

Cầu tre lắc lẻo gập gềnh khó di

Khó đi dì cõng con di

Con đi đường bộ,Dì đi đường đời !

Đèn Sài gòn ngọn xanh ngọn đỏ

Đèn Mỹ tho ngọn tỏ ngọn lu

Anh về anh học chữ nhu

Chín trăng em đợi mười thu em chờ..

Câu ca dao ngọt như mạch nha, thấm như phù sa vào ruộng đồng. Những bài hát nghe như tiếng nước chảy, như mây bay, như hơi thở nhẹ nhàng. Giấc ngũ của tuổi thơ không bận bịu âu lo, chỉ đôi câu hò đã thần tiên đầy mộng Dì vẩn ngồi lặng lẽ bên máy may, chiếc bóng đơn thầm lặng với tháng ngày, trong lòng đêm đen có bao nhiêu ước mơ, có bao nhiêu con đường, những nhánh sông con đổ về sông lớn, nước trên nguồn về mãi biển khơi!

– Dì ơi! Sao hôm nằm ở hướng nào vậy?

– Sao hôm nằm về Phương đông, Trân có thấy chút ánh sáng lấp lánh sau rặng ô môi kia không?

– Sao mờ quá vậy ? Chẳng giống như Dì kể chuyện chút nào.

– Trân phải chờ trời tối hẳn, bấy giờ sao mới sáng hơn.

Buổi tối, nằm trên đống rơm khô, trên đầu là một vòm trời đầy sao, Trân tẩn mẩn đếm, một, hai, có những ông xanh biếc, có những ông vàng hoe, Dì bảo ông vàng sắp đi ngũ, ông xanh sắp đi hẹn hò, ông sao trắng rơi xuống trần làm vương miện tuổi thơ!

Tháng chạp, mùa khô, lúa mùa đang độ cắt, những cánh đồng bát ngát vàng ươm, con rạch nước cạn khô nâu thẳm, gió bấc thổi hiu hiu .

Cuối sân, cậu Hoàng mang nóp đệm ra trải bên cạnh đống lúa vừa đập xong, mùi rạ mới thật nồng nàn, Dì mang mấy củ khoai lang Dương ngọc ra vùi vào lửa rơm, bên thửa ruộng bên kia chỉ thấy bóng tối lờ mờ, cậu Thi vừa đi tuần một vòng, đốm lửa đỏ bay bay từ ngọn đuốc rơm lập loè khuất dần, tắt ngấm. Giữa khoảng không gian im lặng, tiếng sáo trúc của cậu Hoàng thật thiết tha, từng âm thanh nhẹ nhàng cao vút.

– Dì ơi! Sao cậu hay thổi sáo trong đêm ?

– Đêm là lúc không nhìn thấy người, chỉ thấy chính mình thôi, mai kia lớn lên Trân sẽ hiểu .

Trân cầm cái lượt sừng, chải từng dòng tóc mượt, tóc Dì dài như dòng sông, đen tuyền, che kín một bờ lưng. Vết thẹo nhỏ nằm ngang như ngấn cổ, luôn che khuất dưới dòng tóc mượt mà, Trân xoa nhẹ tay hỏi

– Dì có đau không ?

– Lâu lắm rồi, đã không còn cảm giác nửa.

– Tại sao Dì lại mang vết thẹo vậy?

– Lúc nhỏ như con, Dì bị lưởi hái cắt.

Dì có ấm ảnh xoả tóc chụp ngoài hiệu Tân Thuận , mái tóc dài gần tới gót chân, Ngoại bảo đốt đi, người trong ảnh nhìn buồn như vọng phu, Trân xin lại, mang tấm ảnh cất đi. Những năm trung học sau nầy , tấm ảnh ép vào quyển nhật ký mang theo từng lớp học , cuối cùng thì chung với mớ sách vở cháy theo ngọn lửa hồng trong chiến dịch văn hoá, số phận rồi cũng trở thành tro bụi như lời Ngoại ngày xưa .

Dì theo chồng, khăn voan áo lụa, đầu mùa mưa. Không còn những ngày theo nhau ra đồng bắt cua, bắt ốc, mỗi lần về thăm lại thấy Ngoại lưng còng hiu hắt hơn. Những ngày giỗ Tết, Ngoại vẩn cắm cúi sữa soạn, mỗi vụ mùa màng vẫn dành dụm phân chia, bánh tráng Tết quê Ngoại không do đôi bàn tay của Dì, hương nhạt nhẽo. Bấy gìơ thì Trân lớn hơn , thường theo Ngoại đi cúng giỗ các nơi trong họ hàng, mùa hè, dã dám một mình theo xe đò về thăm quê Ngoại.Trân nhớ như in, tháng nào giỗ nhà ai, năm nay trong thân tộc nhà nào cưới gã, mỗi lần đi thăm họ hàng Ngoại luôn khoe

– Nhìn con bé, năm nay đã lớn bộn rồi đó.

Lần theo Ngoại sang ăn giỗ bên nhà chồng và luôn thể thăm Dì, Trân theo Dì vào buồng hỏi nhỏ

– Dì ở đây có buồn không? Về thăm Ngoại không có Dì, nhà vắng quá.

Đôi mắt Dì long lanh Chiều xuống, Ngoại bảo chào thưa ông bà để trở về, Trân nhìn thấy Dì đứng tựa cửa buồng đôi mắt đỏ hoe. Trân trở vào ôm chặt Dì rồi theo Ngoại xuống bến sông, nhìn lại vẫn thấy bóng Dì đứng tựa gốc cây dừa, thật nhỏ, nhìn theo..

Năm học đệ ngũ ở tỉnh lỵ ,về thăm nhà nghe mẹ kể lại: Dì đã ra riêng, Trân đón xe đò về thăm, căn nhà lá nhỏ còn thơm mùi tre mới đốn, nằm dọc theo tỉnh lộ ,cách chợ quận hơn cây số, chung quanh nhà trồng một vài cây ăn trái lưa thưa, hai cây dừa lửa vừa đơm bông bên cạnh cái mương đầy nước trong vắt. Vừa bước xuống xe, nhìn sang, thấy Dì đang hái rau, ánh mặt trời chói chang, nghe tiếng xe ngừng, Dì che mắt, ngước mặt, thấy cái bóng nhỏ quen thuộc băng qua đường, mừng đánh rơi cả rổ rau trong tay.

– Sao con dám đi một mình vậy?

– Con nhớ Dì !

Nắng ban trưa long lanh trong đôi mắt, Dì nắm bàn tay như những ngày nhỏ dại, đôi bóng ngã theo bước chân reo vui .Căn nhà đơn sơ, ngăn nắp, trong mỗi góc có bàn tay chăm sóc của Dì, bên cạnh cái máy may, quyển sổ tay nhỏ, ghi lại tỉ mỉ từng đồng chi thu, trong giàn bếp treo thẳng hàng mấy cái nồi chảo, ấm nước, khung cửa sổ nhỏ nhìn ra giàn mướp đầy hoa, nằm bên cạnh mảnh vườn rau muợt, ở cuối vườn, dây mồng tơi bò quấn quýt quanh mấy cái cọc tre. Chiều xuống, Dì ra giàn cắt trái mướp đầu tiên đãi con bé canh cá rô, dượng vớt mấy con ốc bưu to tướng dưới mương về làm quà

– Sao dượng lại biết con thích thứ nầy vậy ?

– Thì Dì vẩn nhắc con chứ ai, con là cái bóng của Dì mà.

Buổi tối, nằm trăn trở trên chiếc giuờng tre, Dì vẫn xoả tóc ngồi bên chiếc máy may tiếng chân đạp đều đều, Dượng chuốc tre làm đũa cạnh ngọn đèn dầu lung linh, Trân nhớ làm sao, tiếng hát êm ái, bản vọng cổ sáu câu dài tha thiết, hay những bản vắn ngọt ngào, điệu Nam ai u uẩn, bài Lưu thuỷ hành vân nhẹ nhàng!

– Dì ơi! Sao dì không hát nữa vậy ?

Những năm tháng sau trung học đi xa, quay quắt những vòng soay tuổi lớn, lâu lâu vẫn trở về thăm ngôi nhà nhỏ với Dì Dượng và mấy đứa trẻ thơ, căn nhà đã bao nhiêu lần dựng lại, mái lá thay bằng mái tôn , vách tre thay bằng vách ván, hàng cây ăn trái đã lần lượt bao mùa. Hai cây dừa xoã lá bên mương giờ đã vươn cao quá nóc nhà. Mấy đứa bé mừng chị về đứng thập thò trong khung cửa.

Từ giã con đường liên tỉnh, khăn áo về thủ đô, những tháng đầu mùa mưa lướt thướt, nằm trên gác nhỏ hầm hập sức nóng ban ngày, tiếng mưa trên mái tôn, tiếng sấm đầu mùa chìm lắng trong trăm ngàn tiếng động của thành phố. Sách vở nhai như kinh kệ, nhìn ra vòm trời hoả châu loé sáng đêm đêm, những ông sao sáng trong ký ức miệt mài, không biết ông sao trắng nào đã rơi xuống thành ước mơ, bùng lên rồi tắt hẳn? Mưa đầu mùa, mưa điên cuồng, mưa thịnh nộ, mưa cuốn trôi bao nhiêu giấc mơ, từng ngày xây đắp, mưa gào thét nhớ thương khung trời cao vút xa xôi !

Đất trời đảo lộn, dã thú nhập thành, lang thang phơ phất, lúc trở về ngang tỉnh lộ ghé lại thăm Dì Dượng, vẫn mái nhà xưa, hai cây dừa sắp lão, Dì bế thằng bé con èo uột trên tay, mặt buồn hiu hắt, nhìn quanh bầy trẻ nhỏ cũng im lìm ngơ ngác

– Sao em nóng quá vậy Dì? Em bệnh từ bao lâu rồi ?

– Đã hơn tuần nay rồi, Dì cũng không còn biết phải chạy nơi đâu nữa.

– Dì sửa soạn đi, mình đưa em đi bệnh viện Nhi đồng chửa trị .

– Mình làm sao đi được con? Thời buổi nầy !

– Còn nước, còn tát.

Thằng bé quặt quẹo, ngày nóng ngày lạnh, đêm từng đêm Dì ngồi ôm con trên tay, tiếng ru đứt doạn. Trân chạy đi chạy về, mấy vòng xe đạp con con, từng hộp thuốc chạy ra chợ trời tìm mua, Trân lén mang cái đồng hồ tay đem bán, Dì cũng bán đến chiếc nhẩn vàng cuối cùng thì thằng bé xuất viện, lồng ngực ốm trơ xương nhưng nhịp thở dều đặn, Dì không giấu nổi vui mừng, thôi thì đổi tên nó lại là Trường An, chỉ mong sao cuộc sống nó sau nầy như tên đặt .

Lần cuối cùng, sau bao nhiêu chuyến trốn đi, trở về, thất bại, lần nầy như một điềm báo, Trân ghé ngang thăm Dì trước khi lên đường đến điểm hẹn, uống ly nước chưa xong đã từ giã, Dì tần ngần đứng tựa cửa trông theo , bao nhiêu lần, từ thuở con bé ôm chân, đến khi thành thiếu nữ thướt tha áo lụa, bao giờ cũng là bóng Dì đứng trông theo Trời chuyển mưa, có phải là giọt mưa đầu mùa lất phất, giọt mưa lăn dài mặn đắng trên môi !

Vũ Thị Thiên Thư

 

Chia Niềm riêng

Chia niềm riêng

Gội sương sớm bơ phờ vóc liễu
Chở tình thâm trăng chiếu mông lung
Chia niềm riêng nổi đau chung
Cành Nam mõi cánh chim Hồng tha phương

Ngóng gió bắc đoạn trường Hồ Mã
Vọng non cao hoá đá chờ trông
Vai nào gánh nặng nuí sông
Tình nào biển cả một lòng theo nhau

Hờn quốc biến máu đào phơi kiếm
Hận gia suy mang nghiệp bút nghiên
Thẹn thùng bao nổi truân chuyên
Anh hùng bất luận thuyền quyên chữ tòng

Bạc áo vải tang bồng hồ thỉ
Mộng huy hoàng mỹ ý hoan ca
Nong tằm lúa mới muôn nhà
Cùng nhau dệt gấm thêu hoa cho đời

Vũ Thị Thiên Thư

Nếp Cũ

Nếp cũ

 

-Tay trái giữ ngay chính giữa , tay phải cuộn lại cho tròn, cho thật khít, bằng không thì bột chảy ra , nhân bánh sẽ bể.
Ngoại ngồi trên cánh phản trong nhà bếp,chung quanh là một bầy con gái, trước mặt mỗi cô bé là hai chồng lá chuối xanh mượt , nửa hình bán nguyệt ,nửa hình lục giác dài.Mợ ngồi bên trái với thau bột nếp nhồi bằng nước đường và mâm nhân đậu xanh bóc vỏ viên tròn như trái quất .Dì ngồi bên phải với thau bột nhồi bằng nước ấm và mâm nhân dừa xào đường trộn đậu phọng rang giã nhỏ. Ngoại đang dạy cả bầy cháu gái gói bánh ích .Chúng tôi là một lũ trẻ nhỏ ham chơi đùa ,Ngoại vẩn thường nhắc nhở tất cả:
– Con gái ,nếp nhà ,phải lo học làm các thứ bánh trái ,nấu nướng thức ăn,thêu thùa may vá ,dù trong nhà có kẻ ăn ngươì làm ,mình cũng phải biết cách ăn ở để dạy dỗ kẻo chúng khinh nhờn.
Ngoạị goá chồng từ thơì xuân sắc . Một đời tần tảo nuôi bầy con thơ daị . Từ công việc đồng áng bên ngoài cho đến việc chăm sóc nhà cửa bên trong ,tính toán chi thu ,trả công người làm…Mỗi năm, cần bao nhiêu giạ lúa thóc để ăn hàng ngày cho đến chi dùng trong các lần giỗ Tết, bao nhiêu lít đậu ,lít mè,con heo,lứa cá, mỗi thứ đều tính toán thật chính xác, chi ly .
Tháng tư ,đầu muà mưa,cũng là ngày giỗ ông . Ngoại hay kể chuyện ông thuở sinh tiền,ông thích mặc quần áo bà ba lụa trắng,đi guốc dông,sáng lập hội tài tử,vào những tối sáng trăng,cùng chúng bạn bè xuống nhà thuỷ tạ hoà đàn,ngón độc huyền của ông như “ nước chảy mây trôi “… Ðến năm đầu thời kháng chiến Ông bị quân giặc mang ra bắn trước sân nhà ,không bản án ,không cáo trạng ,chỉ vì ông để tóc dài búi tó như tín đồ Ðạo Hòa Hảo và trong nhà thờ trần nâu . Ngoại ôm con đỏ ra xin xác chồng về chôn cất .Từ đó ,mang hết aó luạ ngà nhuộm nâu ,tập ăn trầu , thu xếp nhà cưả lui về cạnh nhà bố mẹ chồng dựng mái lá nuôi con . Tuổi chưa đầy năm cậu mất cha ,mẹ tôi vưà tròn mười sáu.Ngoại còn giữ lại đôi guốc mộc,cái gối kê đấu bằng gỗ mun,mấy trang giấy lụa bút tích của ông mối mọt ăn thâm thủng nhưng Ngoại không nở rời. Mấy bà cô dì trong họ thường bảo chúng tôi:
– Ngoại con lúc đương thơì là hoa khôi trong làng đó,bao nhiêu người đi hỏi cưới, nhưng Ngoaị chỉ ưng lấy Ông con.
Ngày Ngoại theo chồng, để lại bao nhiêu chàng si tình ngơ ngẩn .Ðến khi mất chồng, cũng đã bao nhiêu người đến ngấm nghé , Ngoại nhất quyết thờ chồng , chỉ mặc aó nâu ,đầu quấn khăn rằn đen , lo chăm sóc ruộng vườn, nuôi dạy bầy con .
Quê Ngoaị là thiên đường tuổi thơ diệu vợi, hàng năm vào những ngày giỗ Tết chúng tôi xôn xao đợi chờ . Từ tỉnh lộ đi bộ vào nhà chừng ba cây số ,nhưng tuổi nhỏ xa xôi tưởng như nghin dặm.Mỗi lần về thăm, Ngoaị bảo Dì mang xuồng ra đón tận bến sông . Ngày nước ròng , con rạch thu nhỏ lại, phơi hai bờ bùn đen ,bọn trẻ con thường mang mảnh ván ra sông chạy chùi, chúng tôi nhìn thấy thật thèm thuồng, nhưng Mẹ và Ngoaị cấm không cho xuống bờ cùng chơi vì sợ miểng chai ,gai nhọn nằm lẫn lộn trong bùn cắt thịt đứt da.
Nắng tháng hai, mưa tháng tư , mỗi năm tháng chất đầy kỷ niệm .Những ngày tung tăng theo Dì ra vườn cắt lá chuối về gói bánh tét,bánh ích đám giỗ , Dì lấy cho cái áo bà ba cũ rách mặc vào,vì sợ mũ chuối dính áo mới sẽ biến thành màu nâu, không tẩy được . Môĩ bụi chuối chỉ dùng liềm cắt hai tàu lá , mang ra phơi nắng cho dẽo , dùng dao rọc lấy sống lá phơi cho héo lại để dành chẻ dây cột bánh tét , thân lá xếp laị từng xấp mười tấm , môĩ tấm mang về xé nhỏ thành từng manh dài chừng ba tấc , manh lớn hình chử nhật thì gói bánh Tét ,manh nhỏ hơn dài chừng hai tấc thì danh theo hình lục lăng dài dùng làm lá bao bánh ích ,nhỏ nhất thì danh theo hình bán nguyệt để làm lớp gói bên trong của bánh ích . Thuở nhỏ , công việc chính của chúng tôi là ngồi lau từng manh lá ,chờ Dì danh góc cho tròn,mang lá vụn ra góc hè chơi trò nấu cơm ,bán hàng, cùng mấy anh chị em con Dì con Cậu . Ðến tuổi lớn hơn thì được Ngoaị dạy và cho thực tập gói bánh .
Bánh ích gói bằng hai lớp lá chuối ,lớp bên trong dùng lá hình bán nguyệt , cuộn lại hình quặng , Mợ Hai nhồi bột nếp trong thau thật to ,ngắt một ít bột, đặt nhân bánh vào giưã viên lại cho tròn ,cho vào quặng lá chúng tôi đang chờ,tay Mợ thật nhanh ,thật đều , Ngoại dạy chúng tôi dùng tay xếp một bên lá nằm xuống ,ngón cái giữ laị , sau đó xếp cạnh đôí diện , phải giữ cho bốn cạnh thật đều hình tháp,bốn góc cân đôí ,đỉnh cao vừa vặn , đặt bánh vào lớp lá bao bên ngoài hình lục giác ,cạnh trên phủ xuống nằm bên trong ,cạnh dưới xếp lên bọc bên ngoài ,chận ngón tay và xếp hai bên lá lại thành hình tam giác cho đều, bẻ lên hai bên . Bánh sau khi gói xong ,hấp chín chờ cho nguội, mang xếp vào thúng theo từng loaị bánh ngọt hay bánh trắng và làm dấu để khi mang ra đãi họ hàng không phải phân vân bơí tìm .Cái hạnh phúc rộn ràng của chúng tôi bấy giờ là tranh nhau lời khen cuả NgoạI:” con gái tinh ý ,khéo tay học nhanh và làm gọn gàng .”
Bên cạnh bánh ích,bánh tét là thứ không thể vắng trong các lễ giỗ , Ngoại thường gói nhiều loại bánh tét , bánh tét nhân đậu mỡ ,nhân đậu ngọt ,nhân dừa xào đường ,và nhân chuối là món chùng tôi ưa thích nhất …Trước khi học gói bánh tét ,Ngoaị dạy cho cách cột bánh . Bánh cột bằng dây chuối, lúc cắt lá, rọc lấy sống mang ra phơi nắng cho dẻo , chẻ thành sợị ,thật mịn , thật đều , nhỏ quá dây sẽ đứt ,to quá cột vào đòn bánh không đẹp,trông thô kệch . Lúc cột dây không được xiết quá chặt ,bánh không chín dều , nhưng xiết không chặt thì bánh sẽ nong nước ,nhảo nhè nhảo nhét. Bánh nấu chín mang vào treo trên sào tre trong nhà bếp,chờ đến lúc mang ra cúng kiến và đãi họ hàng, Ngoại lại dạy thêm cho cách cắt bánh tét, cắt bằng dao khoanh bánh sẽ méo mó , phải bóc hết lá ra, dùng chính lá gói bánh lót xuống dĩa, bằng không khi đặt vào bánh sẽ dính, dây cột bánh gỡ ra một sợi dài, dùng dây nầy để cắt, khoanh bánh sẽ tròn trịa ,nếp và nhân thật cân đối, không trộn lẫn nhau, bánh chín đều ,đó là con gái nhà, khéo léo ,thành công .
Nếp dùng gói bánh tét Ngoại cẩn thận nhặt từng hạt thóc , ngâm nước qua đêm , dậu trắng phải chọn loại hạt nở đều , dừa khô không được khô quá . Tuỳ theo loại nhân, nhân đậu ngọt ,nhân đậu mỡ hay các loại nhân khác mà dùng nếp xào vơí nước cốt dừa , hay dùng nếp ngâm trộn vơí dừa khô nạo nhỏ. Mỗi đòn bánh dài gần hai tấc , dùng một chén nếp đầy vun ,đã xào hay ngâm sẳn trộn với muối ,dừa ,đậu trắng , lá chuối xếp chồng lên nhau ,nếp trải mỏng, nhân xếp vào giữa ,hai tay phải thật nhanh lúc cuộn nếp lại thành hình ống, bẻ hai đầu bánh cho vuông vắn, dùng dây cột bánh ,mỗi nuột dây cách nhau chừng hơn một phân tây , bánh cột xong cho vào thùng lớn ,bánh nhân đậu mỡ xếp bên dưới,đậu ngọt kế tiếp, bánh nhân chuối là lớp trên cùng . Bánh tét thường phải nấu cả ngày, củi đun là loại xấu, gốc mắc,cành to quăn queo, không thể chẻ được, nhưng củi nầy lại cho ra than thật hồng ,thật nóng, thuở nhỏ ,chúng tôi hay quanh quẩn bên cạnh khều than ra nướng khoai , nướng bắp … đôi khi, Ngoại nướng bánh phồng nếp,bánh tráng dừa , mang cả mạch nha trộn mè ra kéo thành kẹo bánh tráng làm quà vặt cho trẻ con .
Bên cạnh bánh tét ,bánh ích còn có bánh nước tro,là thứ gói bằng lá tre. Nếp dùng để gói loại bánh nầy Ngoại mang ra ngâm trong nước tro đốt từ cây đước ( là một thứ cây tạp sau khi đốt thành tro ,cho vào hủ nhỏ ,đổ nước vào , sau đó lọc lấy phần nước trong ,chỉ có nước tro nầy mơí có đủ độ mặn để ngâm nếp).Thường phải ngâm mấy ngày, xả laị nước lạnh cho nếp thật sạch và thật mềm.Dùng lá tre tàu để gói bánh, hình ống như bánh tét , hình vuông như bánh chưng , hình tháp như bánh ích hay bánh ú . Khi nấu bánh, Ngoại dùng một loại măng của cây tre gai thả vào nước làm màu nhuộm.Bánh nước tro là một thách thức cho chúng tôi, lá tre rất dòn, lúc gói phải nhẹ tay, cột bánh phải nâng niu, lá rách, nếp trộn nhân, bánh vỡ,măng tre phải đúng lứa không đốn măng quá già ,bánh đen,quá non bánh trắng…Ngoại thường nhắc nhở lúc gói cũng như khi ngồi canh bánh, lửa đều,thêm nước nóng ,không để nếp sượng, bánh thành công khi mở ra phải trong như hổ phách, ăn vào miệng vừa dẽo vừa dòn,nếp quyện vào nhau không nhìn thấy hột,nhân bánh nhìn thấy nằm ngay ngắn,vừa vặn bên trong …
Bao nhiêu là kinh nghiệm ,Ngoại mang ra dặn dò cùng bầy cháu ăn chưa biết no, lo chưa tới .Bao nhiêu là thứ bánh trái mộc mạc của quê Ngoại xa xôi trong trí nhớ, bao nhiêu lời cân nhắc chi ly ,như mực in ,như dao khắc…Hình ảnh Ngoại ngồi bên khai trầu, ngọn đèn dầu lung linh, hay đứng bên cây cầu dừa cạnh bờ sông lúc đưa con cháu xuống xuồng về tỉnh lỵ. Bóng Ngoại gầy gò đứng thắp nhang trước bàn thông thiên bên cội mai vàng nở rộ mỗi dịp Tết về .Hình ảnh nối liền với nếp cũ với thiên đàng tuổi thơ ,với quê hương chắt chiu thương nhớ …
Chúng tôi, bầy cháu Ngoại ở xa , mỗi lần về thăm như ngày là hội hè , bao nhiêu thứ bánh trái làm sẳn, bao nhiêu tình thân yêu . Sống bên Nội,chúng tôi quen với chợ buá hàng ngày, dù có được rong chơi thì cũng chỉ quanh quẩn dăm ba nhà lân cận.Về quê Ngoaị, thuở nhỏ là cả môt thiên đường nở hoa, nhà Ngoại cách liên tỉnh lộ Long Xuyên Cần Thơ có mấy cây số đường mòn, dăm ba cây câù tre, những ngày đầu mùa mưa,đất sét lầy lội,mỗi lần đi qua cầu là một lần sợ hãi, hai bên đầu cầu mỗi nhịp là một thân cây gòn trơn bóng, nhịp giữa nối nhau bằng hai cây tre nhỏ đong đưa kẻo kẹt theo từng bước chân qua,hai chị em cứ đứng nhìn nước chảy xiết dưới chân cầu, không chịu đi ngang ,Mẹ phãi bế từng đứa một sang bờ .
Lúc Dì chưa theo chồng , cứ mỗi lần giỗ tết về thăm, Ngoại thường bảo Dì bơi xuồng đưa Mẹ con ra tỉnh lộ, con rạch nhỏ, tháng nước ròng ,bông Tra rụng theo dòng trôi mênh mang ,Mẹ dạy hai chị em đếm bông cho quên đường dài
– Bông màu vàng cho Ba ,bông màu hồng cam cho Mẹ , một bông nho nhỏ ,hai bông to to , ba bông dật dờ ,bốn bông bay bỗng …tuổi thơ lồng lộng …
Ngoại chuốc cho mâý chiếc dầm con con , hai đứa tranh nhau bơi theo Dì và Mẹ ,
vừa bơi vừa vớt lá rong xanh , vớt được trái mã đề tranh nhau cắn vỡ ra lấy hột,hột nhỏ như trái sung , nhơn nhớt như trái bông sún,bao nhiêu là kho tàng tuổi thơ trôi theo dòng sông nhỏ, mãi chơi quên mất cả chuyện bơi theo mái dầm, Dì và Mẹ phải bơi nhanh cho kịp con nước , lúc Dì trở về ngược nước và vắng Mẹ con sẽ buồn nhớ biết bao.
Mỗi lần được về thăm quê Ngoại là một lần xôn xao ,nắm níu, dù chỉ cách nhau có mười cây số đường dài ,nhưng thuở xưa chưa có phương tiện giao thông , khoảng đường dài như quan san cách trở. Thuở ban đầu Ba Mẹ còn thường bơi xuồng vê thăm,đến lúc sinh các con, thêm bận bịu bán buôn,Mẹ ngoài những ngày giỗ chính và ngày mùng hai Tết, rất ít khi về .Cho đến lúc các con lớn lên,lúc nào cũng thèm thuồng ,hình ảnh quê Ngoại gắn liền với những trò chơi thơ ấu, hái lá ,bán hàng, cút bắt ,nhảy dây … con đường trước sân nhà lót một hàng tán đá xanh vuông vắn ,từ thềm nhà xuống mãi tận bến sông,thuở nhỏ chân chim , con đường nầy như một trò chơi chạy nhảy,với đôi bàn chân bước ngắn ,mỗi viên gạch lót dài là mỗi bước phiêu du,một chân trời mới lạ, mê mãi ,một hai …
Bên hông nhà, vườn trầu xanh mượt lá,mỗi chiều theo cậu mang gàu ra múc nước sông lên tưới mấy nọc trầu ,Ngoại căn dặn mỗi gốc trầu phải đếm bao nhiêu gàu nước ,và mỗi dây trầu chỉ được hái hai lá vàng mơ. Trầu hái xong, mang ra rưã sạch, giũ cho hết nước và xếp vào khay .Tôi vừa tưới nước,hái trầu vừa thắc mắc :
– Ngoại à,tại sao chỉ hái trầu buổi chiều vậy ?
Ngoại nhặt lá trầu vàng tươi , ngắt bỏ đuôi nhọn,chẻ một lát cau dầy ruột trắng tinh,têm trầu với ít vôi màu đỏ thắm , cho vào miệng nhai,nhổ nước vào ống ,nhả bã trầu,từ tốn trả lời:
-Chuyện kể lại ,có cô dâu mới về nhà chồng ,buổi sáng tinh mơ ra vườn hái trầu vào mời chào, chẳng may, khi phu quân ăn vào ngã lăn ra chết, làng bắt tội giết chồng, thị kêu oan,lúc quan Huyện xét tìm tội trạng ,hỏi chuyện ,thị kể lại đầu đuôi, quan bèn ra vườn trầu tìm kiếm mới thấy dưới nọc trầu có dấu rắn bò ngang , theo dấu nhìn vào lá trầu vàng còn đọng sương mai, quan nghiệm rằng :
-Ðúng như Quan nghĩ,thị không cố ý thuốc chồng ,đêm qua rắn độc bò ngang vườn trầu uống sương đọng trên lá ,nhả nọc lại ,thị vô tình hái nhầm lá có nọc rắn ,chồng ăn phải, trúng độc mà chết .
Nhờ Quan sáng suốt ,thị được minh oan .Quan dạy dân sau nầy không nên hái trầu đọng sương, và nhất là phải rữa cho sạch trước khi ăn.Lâu ngày thành thói quen, dân làng hái trầu vào buổi chiều, rưã và giũ cho sạch,sớm mai mang ra nhúng nước trầu sẽ tươi tắn lại như lúc mới hái thôi.
Câu chuyện hái trầu chỉ là một trong kho tàng cổ tích Ngoại thường kể , những tối chong đèn quay quần bên bộ ván gõ, Ngoại kể chuyện anh hùng thuở xưa, chuyện bà Triệu cởi voi đánh giặc,chuyện Nữ tướng Bùi thị Xuân quấn vải quanh mình để lúc chết thân thể không phơi bày,chuyện Ðinh Bộ Lĩnh tập trận cờ lau, hay gương hiếu đạo Mục Liên cõng Mẹ vượt chín tầng điạ ngục,thành tích rằm tháng bảy là ngày xoá tội vong nhân…Nhưng thật gần và thật luyến lưu,chuyện ông tôi thuở sinh tiền và hội bạn tài tử, những cuộc hoà đàn đêm thanh,hay hát hò đối đáp, những câu hò tình tứ ,những bản vắn điệu ngũ cung ai hoài, hay bài vọng cổ mênh mang. Thỉng thoảng, chúng tôi lại xin Ngoaị hát ru,ngững câu ca dao ngọt ngào, những câu tục ngữ thân quen, tiếng võng đưa nhịp nhàng ,trong trí nhớ nhỏ nhoi cuả tôi ,Ngoại như quyển sách chứa bao nhiêu điều huyền diệu…
Những ngày lớn hơn, mùa hè về thăm ,nằn nì đòi Cậu dẩn ra chòm mã đá xem trâu ,con trâu già của bà Năm cột gần bụi tre , cặp sừng cong vút, hơi thở phì phò, tôi chỉ dám thập thò đứng từ xa len lén nhìn, chuyện ngồi lưng trâu thổi sáo,chuyện mục đồng cờ lau, chuyện giết giặc cứu nước chỉ nằm trong sách vỡ học trò,Làm sao có can đảm leo lên lưng con trâu cổ bóng ngời mà học đòi làm mục đồng ngồi trâu thổi sáo? ngay cả lúc nhất định đòi Cậu dạy cho thổi sáo,học bao nhiêu lần ,nhưng thổi lên như… thổi lửa.Chả bù với tiếng sáo của Cậu , những đêm sáng trăng thanh âm bay thật cao,thật xa, bên kia sông nước,trên ngọn trúc lao xao,dưới bóng dừa thì thào…
Ngôi miếu cổ xây bằng đá xanh nằm bên vàm sông , trong miếu thờ lủ khủ mấy ông Tà bằng đá ,thân hình như quả trứng tròn trơn bóng , trước miếu lau lách um tùm,bên cạnh cây gừa già,tàng lá che ra tận nưã bờ sông, rễ mọc thòng xuống bùn đen , lê thê như tóc thiếu nử ngồi hong trong sân nhà ngày nắng hanh.Con sông nhỏ,nước chảy dật dờ, cây gừa tuổi già hơn tuổi Mẹ, gốc to đến mấy người ôm, chúng tôi thường rũ nhau trốn ngũ trưa, dùng cành lá che nhà trên nhánh ba , dùng rễ gừa làm màn, mỗi nhánh cây theo tháng năm lớn lên là một lần tuổi thơ vụt thoát. Chán trò trên cây,lại cút bắt dưới nước, tập bơi bằng hai trái dừa điếc đóng hai đầu cành tre , cái miễu ông Tà cũng được chúng tôi thăm viếng thường xuyên. Huyền thoại linh ứng cuả ông Tà không đủ ngăn sự tinh nghịch cuả trẻ con, chúng tôi chẳng biết ông Tà thường bắt trẻ con nóng đầu, hay hành hạ mấy đứa con trai nghịch ngợm vì tội đái bậy vào thân ông ,chỉ thấy mấy cục trứng đá trơn nhẳn nhụi lây lất nằm trong miếu rong rêu, thế là mấy chị em rũ nhau mang hết xuống sông dùng xơ dừa kỳ cọ cho đến sạch bóng, còn bảo ông Tà ở dơ quá, người đầy đất bùn. Mấy anh chị con Cậu sợ hãi chạy vào mách Mẹ ,Ngoại lại lễ mễ mang bánh trái ,đèn nhang ra cúng tạ lỗi và xin cho trẻ con nhỏ dạ non lòng .
Những năm lớn lên, về Ngoại không còn những trò chơi thơ ấu. Con gái nếp nhà, phải chăm lo công việc may vá, thêu thùa,bánh trái, nấu ăn .Những ngày giỗ chạp, những ngày cưới hỏi, Ngoại mang bầy cháu gái ra truyền lại kinh nghiệm chăm chút trong ngoài, bánh mứt mỗi thức mỗi mùa.Dù là con gái thị thành nhưng không thể quên được nề nếp,dù không chính tay làm cũng phải biết cách tổ chức xếp đặt để chỉ bảo cho kẻ ở ngườI ăn .Mỗi lần trong họ hàng có đám tiệc, Ngoại lại mang bầy cháu trai gái đến phụ giúp,các anh thì lo việc dọn bàn ghế , các cô thì lo bếp núc trong nhà. Ðám cưới ở nhà quê là nơi hẹn hò gặp gỡ, nơi trai thanh gái lịch có dịp làm quen, cũng là nơi mấy bà mẹ chồng tương lai thường vào tuần tra trong đội ngũ con gái, nhìn quanh chọn lựa, xem từ hình dung đến cung cách, giã vờ chuyện nọ trò kia ..,bao nhiêu mánh khoé Ngoại thường nhắc chúng tôi coi chừng,dù không có ý định lấy chồng cũng không nên có lý do cho người khác chê cười dòng dõi tông môn.
Ngày người chị họ theo chồng, đứa cháu đầu tiên sang nhà khác ,Ngoaị dặn đôi câu, đêm lạy chào xuất giá, Ngoại cẩn thận xếp một hộp kim chỉ để vá may,một hộp bánh phòng khi đói lòng, những gì cận kề học hỏi …vượt cạn,biển đông …
Tết ,năm Ngoại bảy mươi,họ hàng đến chúc mừng, mỗi người một câu , nào phúc lộc, nào sức khoẻ,con đông, cháu đầy.Ngoaị ngồi lặng lẽ, con cháu về ,nhưng chưa đủ, còn một nửa bầy,thật xa, cách một biển khơi ,nửa vòng địa cầu … Quê hương tuổi nhỏ gói theo bầy cháu Ngoại tha phương ,những lần giỗ Tết hiu hắt, khoanh bánh tét gói bằng giấy nhôm tuy không có mùi lá mới, nhưng gói thật tròn cái nếp cũ bấy lâu.

Vũ Thị Thiên Thư

[ Chia niềm hạnh phúc  tuổi nhỏ trong bầu trời quê hương yêu dấu ]