Góc Rừng

GócRừng

Hơi lạnh gay gay của ban mai, sương sớm long lanh vương trên đầu ngọn cỏ, khu rừng câyxanh như vừa trở giấc, từng cành khoe lá nhỏ li ti, đang múa ca lơi lã, tiếng gió nhẹ nhàng hài hoà hợp tấu, hàng thông ủ rũ cũng vươn vai trở mình, lá mong manhkhua xào xạc. Những chuyến xe đi về cuối tuần, con đường mòn với hai hàng cây,đất còn ướt mềm sương thấm đẫm đêm qua, đôi vết bánh xe in hằn xuống từng ngày đã trở thành quen thuộc. Sớm mai, nhìn hững nụ xanh mơ lấm tấm trên cành khô, sức sống thật là kỳ diệu, vạn vật như bừng tỉnh lại sau giấc ngủ triền miên, giấc ngủ bình an suốt một mùa đông dài …

Cánh rừng bát ngát, những bông hoa tuyết trắng xoá tung bay đã biến đi mất dạng. Hàng thông xanh hờ hững đứng trong góc, cuối khu vườn, từng cành cây như cánh tay vuơn ra, tham lam ôm đầy những nụ hoa trắng mênh mang, mùa đông qua đi, cánh tay cây đã không còn nặng trĩu, thay vào màu áo xanh non tươi mát, đồng cỏ như
tấm thảm nhung êm mượt, hoa Dent de Lion nở vàng bát ngát, từng nụ xinh tươicánh mỏng manh khoe tơ nhuỵ lấm tấm rung rinh trong nắng sớm.

Thương ôm con lên vai, vổ nhẹ vào lưng rồi đặt con lên chiếc xe đẩy, đôi bàn chân nhỏ đong đưa, mấy sợi tóc lơ thơ, mỏng manh như
tơ trời . Nắng tràn ngập chan hoà, nắng lung linh nhảy múa, đôi bàn tay như chụp bắt cả một khoảng trời mênh mang. Thương trải mảnh chăn nhỏ, đặt chiếc xe đẩy kề bên, rồi ngồi xuống, bên cạnh chiếc xích đu, chỉ là mảnh ván nhỏ cột lại bằng hai sợi dây thừng, mắc trên cành cây cổ thụ trong khu vườn sau. Cầm quyển sách mở ra hờ hững, chữ nghĩa nhảy múa trong đầu đầy dặc, nhìn xuống đôi bàn tay con, mấy ngón nhỏ nhoi, thương quá, lại âu lo, ngại ngần, không biết những ngónmong manh nầy có đủ bám víu vào cuộc đời đầy trắc trở? Như giọt sương long lanh buổi sáng, rồi nắng sẽ mang đi về phương xa nào, sẽ tái sinh vào ngày kế tiếp, cái vòng lẩn quẩn, luân hồi. Nhìn xuống vầng trán và làn da non mịn mướt, những sợi gân xanh chằng chịt như dòng sông, con rạch, dẩn dắt từng giọt máu đi vòng quanh cơ thể. Vuốt nhẹ đôi má, cái miệng chúm chím, một chút sữa còn đọng trên
mép môi. Kéo chéo khăn lau nhẹ cho con, giấc ngũ bình an tuổi thơ, cái đầu nhỏ lắc lư rồi lại nhụi vào tấm chăn đắp, đôi mắt nhắm hờ, như nắm níu với cơn mơ còn sót lại. Cái bóng người lêu nghêu ngã xuống, dừng lại bên cạnh, tiếng nói nhẹ nhàng

– Chào cô, cháu ngủ ngoan quá.

– Chào ông, cảm ơn ông

– Tôi có làm phiền không, nhìn thấy cô thường mang
cháu ra sân phơi nắng.

– Vâng, suốt mùa đông ngồi mãi trong nhà, giống như
con gấu trốn trong hang. Bây giờ mới cảm thấy yêu quí những giọt nắng chói chan
của quê nhà, sau khi đã đi xa lơ xa lắt .

– Cô rời nơi ấy đã được bao lâu rồi?

– Một tháng, một năm , thời gian đã trở thành vô
nghĩa , khi không còn muốn xác định .

– Tôi hỏi cũng bằng thừa thôi, chúc cô một ngày vui

– Cảm ơn, và chúc ông như thế .

Thương cúi xuống, mảnh bút chì lăn lóc dưới chân, nhìn theo bóng người thanh niên xa lạ và mẫu chuyện không đầu đuôi. Cái bóng mảnh khảnh, ngã dài liêu xiêu trong nắng sớm, khập khểnh di chuyển chậm chạp qua hàng cây, mấy quyển sách cầm trên taỵThương đoán anh ta hãy còn đang cắp sách đến trường.Chút bình yên đầu ngày xao động. Khu rừng nầy biệt lập, phía bên kia là những căn trại dùng cho trẻ con vào mùa hè, khu nhà nguyện với vườn hoa cỏ mọc tràn lan, hàng trăm mẫu rừng, mười mấy căn nhà le hoe, chỉ có gia đình anh giám đốc và anh phụ tá giám đốc thường xuyên lui tới, anh ta đến nơi đây chắc hẳn phải là người quen thuộc với một trong hai. Khu rừng nhộn nhịp với ánh nắng mai, chim chóc đùa giởn đuổi bắt nhau, nhởn nhơ qua từng cành cây phong vừa trổ nụxanh mượt.

Mảnh chăn len đạp tung toé xuống chân, giấc ngũ chưa tròn đầy, đôi tay nhỏ quơ quào, chới với như muốn chụp bắt lại giấc mơ. Kéo lại
mảnh chăn đắp, Thương bế con vào lòng, ôm lại máu thịt cuả chính mình, nghe trong lòng như muôn ngàn con sóng vỗ, tiếng thuỷ triều rì rào, tiếng đại dương mời gọi bao la. Ðôi mắt trong suốt nhìn như mặt hồ phẳng lặng, Thương nhớ lại, từng cơn đau như biển động, cơn đau xé nát thịt da, từng mảnh trời tối tăm, từng giọt máu hồng chưa kịp đọng. Người ta nói vượt biển mồ côi, vượt sông vượt suối…Cơn
đau không ai chia sẻ, cơn đau không bàn tay nào nâng niu. Trăm hoa nở, nghìn tia nắng khai. Nối tiếp cho những đêm chong đèn nhìn con mà cào ruột thắt gan.
Từng ngày âm thầm nhặt từng sợi chỉ, may từng mũi kim…, chiếc áo nhỏ gói lại mớ thịt xương khúc ruột, cái miệng thơ ngây không khép chặt, từng đêm ngồi nhỏ từng giọt sữa, từng giọt nước mắt lăn…Con ơi! Nếu có phải trăm lần vượt cạn, vạn nẻo chông gai, đổi được cho con toàn vẹn một đời, Mẹ sẽ không ngại ngần dấn thân lần nữa .

Con ra đời, đã mang trong người định mệnh chưa biết khắt khe nào, chân chưa chạm đất, chồi lá chưa xanh, bão giông cuồn cuộn. Hai
tháng, Thương đau thắt ruột gan mang con vào bệnh viện, người y tá lặng lẽ bế con vào phòng rồi đóng cửa lại, Thương đứng nhìn theo, chỉ muốn ôm lấy con , chạy thật xa, chạy lên tận trời xanh hỏi rằng sao nghiệt ngã ? Con nhỏ nhoi, con mong manh, sao không cho Mẹ gánh hết mọi đớn đau dù có chịu thêm một lần banh da xẻ thịt, Mẹ cũng không chối từ, hãy cho Mẹ chịu cơn đau đớn, hãy cho Mẹ sinh con lại một lần, dù có chịu thêm chín tháng cưu mang , dù có thêm lần vượt biển mồ côi , dù có qua bao cơn phong ba bão táp …

Ðêm vô tận, ngày bồn chồn, chờ từng giờ, đến hẹn để vào thăm con. Ôm chặt con vào lòng, hai bàn tay nhỏ nắm lấy tay Mẹ không rời,
Thương nhìn con đau quặn thắt, bàn tay nầy Mẹ ngày xưa xỏ từng sợi chỉ, khâu từng mũi kim, nhìn xuống vết cắt, trong lòng như dao đâm, muối xát, lạnh mùa đông chưa đủ tái tê, sao trong lòng như băng giá.Càng nhìn con càng thêm se thắt, Thương nằn nì, xin được ở lại trông con , “ cho tôi một chiếc ghế thôi, hay tôi không cần nữa, chỉ cho tôi ở bên cạnh con tôi ”…

Cánh cửa im lìm, màu của sự sống chết tranh nhau từng tí từng li, đêm thâu không dám chợp mắt, ngồi canh từng cử động, từng giấc, lau từng giọt mồ hôi. Thương lặng lẽ nhìn ống nylon nối vào cánh mũi phập phồng, tưởng tượng từng giọt dưỡng khí đang chảy qua, từng giọt thấm qua, từng giọt, hai bàn tay nhỏ chực chờ, nắm lại tay con, trong lòng trăm vạn mũi kim đâm, Con ơi !

Người thanh niên ngồi bệt xuống thảm cỏ, đặt quyển sách bên cạnh, thò bàn tay vuông vắn, ngón tay thẳng, khều vào lòng bàn tay nhỏ
nhoi, cử động nhẹ nhàng nâng niu, đôi bàn tay xinh xinh nắm chặt lại, con nở nụ cười thơ ngây, đôi mắt long lanh nhìn vào người đối diện, đôi môi thật rạng rỡ

– Cháu bao nhiêu tháng rồi vậy cô ?

– Cháu vừa tròn ba tháng

– Tôi có làm phiền cô không ?

– Thưa không, nắng ấm quá, hơn nữa trời đất không
dành cho riêng ai, tôi mang cháu ra hong chút nắng đầu ngày .

– Tôi thấy cô ra đây hàng ngày, và bao giờ cũng bút
mực trên tay, muốn trò chuyện cho vui, lại ngại rằng đã làm gián đoạn ý nghĩ của
cô .

– Tôi chỉ viết nhăng và suy nghĩ lan man thôi, không
nhất thiết .

– Cô về sống trong khu rừng nầy bao lâu rồi ?

– Từ mùa đông.

– Cô hay thật, tôi thì không chịu nổi cái vắng lặng
nơi đây, chỉ có cây mà không thấy bóng người, tôi đi suốt đoạn đường vào đây chỉ
thấy bóng nai ..

– Vâng, chúng nó đi hàng đòan, cả gia đình , sáng
nào cũng ngang qua, tôi có cảm tưởng chúng nó quá quen thuộc nơi nầy .

Chúng nó đi nhởn nhơ như những chủ nhân ông đang dạo mát, mà đúng là chủ nhân thật, vì còn ai ngoài mấy căn nhà trong góc đìu hiu, cả khu rừng trăm mẫu chỉ có hai gia đình, nếu như anh giám đốc và con chó Lulu cũng được gọi là gia đình. Thương và con có nguyên một căn nhà, trước đây dùng cho người y tá . Căn nhà thênh thang hai phòng ngủ , căn bếp nhỏ đủ để đun sữa, nấu ấm nước sôi pha ly cà phê sáng, Những đêm nằm nghe tiếng lá thông reo như lời thì thầm, bóng trăng non thập thò sau khung cửa. Thương ôm con ngồi tựa vào khung giừơng, ngọn đèn ngủ vàng vọt, chiếc bóng hiu hắt in lên vách .Cái miệng nhỏ nhoi cố gắng ngậm bầu sữa, những giọt hồi sinh lăn dài theo khoé môi.

Ngày Thương mang con xuất viện, mang theo những vật dụng và lời ân cần căn dặn, bà y tá còn cẩn thận viết vào mảnh giấy, thời khoá
biểu hàng ngày, giờ nào uống thuốc, giờ nào ăn…Về sống âm thầm trong khu trại, ngày qua ngày… Những tờ thư, khi qua đi khi trởø về, dăm khi, rơi xuống khoảng trống không. Ngày mang hành trang lên phi cơ, cũng là ngày quyết định gồng gánh một mình.Thương bình an chờ ngày sinh con. Ôm trong tay máu thịt của chính mình, nhìn vào đôi mắt trong vô ưu, trong lòng như muôn vạn vết thương âm ỉ, càng thương con đoài đoạn, nghĩ đến những ngày sẽ tới, nghĩ đến lúc cơn đau như biển động, lúc nhìn lại tận cùng, khi đôi nắm tay nhỏ như bấu vào cuộc đời gay go, khi đôi mắt trong mở to vào vùng ánh sáng nhân tạo trong đêm sâu, tiếng khóc xé khoảng không buốt tận, chút hơi sức cuối cùng bốc lên như những vết khói tan trong buổi chiều lặng lẽ.Nơi chốn nào cho cả Mẹ cùng con ?? Những buổi sáng ngồi bình yên trong nắng, những ngày dài tiếp ngày. Thương lặng lẽ nuôi con. Ngày một ngày hai, những mảnh thịt da nối nhau lại, đôi môi nhỏ nở nụ cười
nhẹ như nắng mai. Mùa hè, sức sống diệu kỳ, khóm hoa vàng trong sân rực rở.Chút yên tỉnh đầu ngày , không còn ngồi chuyện trò cùng bóng mình, không còn ngày vắng lặng vào ra, những mẫu chuyện bâng quơ, những săn đón nhẹ nhàng.

– Thương à, mùa hè sắp qua

– Vâng , tiếng ve kêu thê thiết quá

– Em có điều gì băn khoăn ?

Băn khoăn ? Mang cả cuộc đời ra chơi trò đen đỏ, đã chạy trối chết, chạy trốn những ràng buộc, vượt thoát những bàn tay, nhưng không vượt khỏi chính mình.. Thương nhìn xuống đôi vàn tay vuông vắn, ngón chặt chẻ đan vào nhau . Nhìn lại khoảng không xanh bát ngát, những tia nắng xuyên qua cành lá, ngoài kia là con đường dẫn vào
vùng trời vô định, Thương nghĩ đến những bước chân theo nhau, nghĩ đến cội tùng thân yêu, vững chắc.  Bóng nắng in thành những tia muôn màu.

Xếp lại mảnh chăn đắp, những chiếc áo đã nằm gọn gàng trong thùng giấy, cuối chân tường, trong góc phòng, mấy quyển sách chồng lên nhau lặng lẽ chờ đợi. Cái chậu tắm, tấm gương soi mặt nhỏ, mấy quyển vở học trò, chút luyến lưu của một thời một thuở.Thương xếp lại từng chiếc áo sơ sinh, từng vật tuỳ thân lỉnh kỉnh vào trong một thùng giấy carton nhỏ, đi vòng quanh căn phòng, vệt nước mưa loang lỗ từ bao giờ còn lại trên trần nhà, những đêm sâu trằn trọc nhìn nhau nhưnhắc nhở. Khung cửa khôïng thể khép chặt, khoảng không gian bé nhỏ quấn quít, những tiếng trở mình của sàn gỗ nhắc nhở sự hiện diện của một đời sống nào khi xưa, khi hãy còn là cây sồi xanh lá mùa hè bát
ngát, hay cành trơ lóng lánh hạt tuyết sương. Bên kia hành lang, căn phòng nhỏ và chiếc giường đơn nằm hờ hững, căn phòng dành riêng, nhưng không bao giờ được đón người trú ngụ, Thương mang nệm gối vào phòng ngủ ngày đêm bên con, chiếc giường trống giờ cũng được xếp lại gọn gàng. Căn bếp, mấy cái tách, dăm ba chén dĩa đã quá thời xuân sắc, cái ấm nước đã trút cạn, cái bếp điện và mấy món đồ
dùng hàng ngày, dụng cụ đơn sơ, hầu hết các bữa ăn nấu từ nhà bếp lớn cho nên cũng chẳng có gí để phải thu xếp. Có chăng là chút nắm níu, chút hương khói nhẹ nhàng ngày đông rạng, lóng cóng những ngón tay, đun ấm nước đầu ngày pha chút cà phê, mang ra phòng khách nhỏ, khung cửa sổ đủ nhìn thầy những tia đầu ngày trời trong xuyên qua kẻ lá, vệt nắng đùa vui chạy đuổi những hạt sương muối hoá sinh thành những giọt ước li ti, từng giọt, từng giọt biến dạng , ra khỏi thế giới sáng loà, trở về cõi thâm sâu.

Thương nhìn ra ngoài cửa sổ, nhìn cội tùng chắc chắn,những bước chân không rụt rè, vững vàng, mớ hành trang chỉ võn vẹn dăm ba thứ lặt vặt, tất cả nằm gọn gàng trên chiếc xe vận tải nhỏ.

Ðóng lại cửa xe, đi quanh một vòng, thắt lại các mối dây cột, nhìn lại bóng dáng nhỏ nhoi đang ôm con tần ngầân nơi khung cửa, chút
nắm níu, chút vấn vương, những bước chân nhẹ nhàng. Ðôi bàn tay vuông vắn trước mắt, mở ra nhẹ nhàng Thương đặt vào đó những ngón nhỏ nhoi của chính mình, của cuộc sống bắt đầu, mái tóc măng tơ, đôi tay bé nhỏ nhú ra ngoài góc chăn phơ phất, từ giã góc rừng, về nơi bình an xa …

Vũ Thị Thiên Thư

An Giang, Nối lại mối dây huyền nhiệm

An Giang,

Nối lại mối dây huyền nhiệm

 

–         Bây đang ở đâu vậy ?

–         Em đang  đi chợ , chị gọi em, có chuyện gì thế ?

–         Mấy giờ bây mới về tới nhà ?

–         Sắp rồi chị , chừng nửa tiếng.

–         Ừ , nhà có gi ăn chay không ?

–         Có Tàu hủ tươi, rau cải, đậu , sao chị lại hỏi em ? Chị đang ở nhà ?

–         Bây nấu cơm chay đi ,chừng một giờ nữa chị tới .

Vỏn vẹn mấy câu dặn dò, quen với tính tự nhiên như người Long Xuyẻn cuả chị, không màu mè khách sáo, bao giờ muốn  sang chơi thì tự động mang thức ăn, chị em nấu
nướng cho hai đức phu quân khề khà, Anh chị hơn chúng tôi một giáp, quen nhau từ
mối duyên áo dài. Thuở còn chân ướt chân ráo về đây, chị đi tìm người may áo dài
cho hai cô tiểu thư mặc Tết, nghe bạn bè bảo tôi may được, anh chị tìm đến, ngày aó may xong thì chị mời đến chơi cho biết nhà biết  cửa. Sắp tết,  vùng Ngũ Đại Hồ tuyết lạnh, co ro bồng bế bầy con, ngày hai mươi ba tháng chạp, chị đang cúngđưa Ông Táo về trời,  hương khói ngạt ngào, chị mang diã bánh tét nhân chuối ra mời. Bánh gói bằng giấy bóng bên trong , boc giấy nhôm bên ngoài, nhìn không như màu lá chuối xanh mưọt cuả quê nhà nhưng hương vị nếp đậm đà, nước dừa thơm lừng, đậu trắng bùi ngậy, không khác với bánh tét quê Ngoại thời tuổi nhỏ.

–         Chị gói bánh giống Ngoại em ngày xưa, em sinh ở miền tây đó chị

–         Ủa, vậy chớ cô ở tỉnh nào ?

–         Em sinh Cần Thơ, lớn lên ở Long Xuyên

–         Cùng quê với tui đó

–         Chị cũng là nguời Long Xuyên sao ? Đúng rồi, bánh Tét nầy chính gốc Long Xuyên, Ngoại em ở Thốt Nốt đó chị

–         Vậy hả, tui ở Cầu Bắc, Vàm Cống

–         Ông Bà em cũng ở  Cầu Bắc đó,vậy chị có biết hảng xe  đò Trung Trung không ?

–         Ông bà Mười Trung Trung là họ hàng gì của  Cô ?

–         Là Chú cuả Ba em đó chị, vai vế thì em kêu bằng Ông

–         Mèn ơi ! Anh ơi! dô  đây nhìn bà con nè , em chồng tui gả cho nhà Trung Trung mà , là  vợ cuả Ba Be

–         Thật sao , là chú Rô Be [ Robert ] cuả em đó

–         Thôi đúng rồi , vậy là mình bà con, mèn ơi , qua hết một đại dương mà gặp nhau xứ lạ
quê người, thật là hiếm thấy, mừng quá đổi đi .

Tháng ngày kế tiếp, mối giao tình thắt chặt, từ lúc tôi sinh tiểu hoàng cho đến bây giờ , phần tư thế kỷ qua đi, anh chị baogiờ cũng mở vòng tay đón các con tôi, bầy trẻ cứ tưởng Bác Hai là anh cuả Bố,chúng không thắc mắc liên hệ huyết thống, những ngày hè chúng chơi chung , đi cắm trại, chia nhau thỏi kẹo Chocolat, hay cây kem mút. Cho đến khi bầy con chị an bề gia thất, học hành danh phận hẳn hoi, mối thâm tình chỉ có tăng mà không hề
phai lạt.

–         Bây biết ai đây không ?

–         Ah !  giống như là Chị Mẫn, anh Khanh,phải không?  Sao không hẹn mà hay quá

–         Tao tính đi sang  bất ngờ cho bây ngạc nhiên chơi thôi mà.

–         Em đang thắc mắc, tại sao chị lại bảo em nấu cơm chay. Không ngờ là có khách quí đến thăm góc rừng. Vào nhà đi chị.

Chị cười to, ào vô nhà , mang xách các thức ăn,thật bất ngờ, từ hai mươi năm qua, nhớ lại lần đầu gặp nhau, anh chị Khanh Mẫn, nghe chị Ánh bảo tôi học ở Long Xuyên , câu hỏi đầu tiên là

–         Cựu học sinh Trường Thoại Ngọc Hầu hở ?

–         Em ra trường Chưởng Binh Lễ chị à

–         Không sao, cũng một nhà Long Xuyên thôi, qua đây từ năm nào ? Con cái mấy đứa  rồi?

Câu chuyện như dòng suối tuôn, những kỷ niệm từ góc sân trường, từ những tà áo trắng gói một trời thơ ,  đến chữ   nghĩa văn chương, văn dĩ tải đạo, lan man qua khung trời sâu lắng cuả những thiền trang thâm viễn, đến hiện tại nhi tử, gánh cơm gạo oằn vai.

–         Nam Chi . thưa hai bác đi con .

–         Cháu là Nam Chi thế đứa nào là Việt Điểu ?

–         Dạ cháu kế em chọn tên Sào Nam, nhưng Ông cuả cháu chọn tên khác rồi chị ạ. Chắc là không có duyên với tên gọi.

Niềm tâm cảm như mối dây vô hình, như đóm lửaâm ỉ trong mớ tro tàn , chỉ cần cơn gió nhẹ, dù vô tình hay cố ý cũng khơi lại hơi ấm, cháy lên nỗi nhớ nhung. Từ giọt nắng vàng vọt cuối thu, khi màu lá vàng phai như mớ tuổi. Mái tóc xanh mượt ngày nào đã rắc những hoa sương. Chị hỏi về những mối tình thầy trò , về những kỷ niệm nằm đâu đó trong ký ức. Ngôi trường mới với sân cát bay mù mịt những mùa khô, khu nghĩa trang với con đường quanh co tránh né, nơi chốn yên nằm của người đã ra đi, những lần bạn bè thách đố nhau, có tên nào dám vào giữa khu mồ hoang kia, chầu nước đá được cuộc bao giờ vẫn là món hàng ưa thích, không vì thèm khát mà vì niềm kiêu hảnh chiến thắng, thứ hào khí thanh niên thử thách mọi khó khăn, từ trò tinh nghịch cho đến chuyện học hành, tranh nhau giải
thật nhanh bài toán khó, trêu cho bằng được Thầy Cô nào mới về trường nhận nhiệm
sở, không tinh nghịch, không là học trò, nhất là những chàng đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời, đánh dấu bằng kỳ thi Tú Tài đôi, vào quân đội, hay tiếp tục học đại học cũng là con đường nan giải.

Nhìn lại tấm gương đời kỳ diệu, những ngày tháng cuối cùng cuả bậc trung học, nhìn những ánh mắt bao dung cuả quí thầy cô khả kính, con đường mà các vị đang đi và đã đi, vẫn đầy thách đố.Thương bọn học trò đầy năng động tuổi thanh niên, thương con đường gian nan trước mắt, thế hệ trẻ chưa nhận diện chính mình, đã được áp đặt vào trọng trách gánh gồng, để rồi tan tác như bầy chim vở tổ, nước mất nhà tan.

Bên kia một nửa vòng trái đất, Long Xuyên, , nơi chốn  tôi và các anh chị sinh ra, nhưng bản thân tôi thật ra lớn lên bên nầy đại dương, khi bước chân trôi giạt, mảnh đời thanh niên chưa kịp lớn đã vuì lấp trong cái guồng vật vã mưu sinh. Tôi tất bật gánh bầy con qua ngưỡng cửa thanh niên. Dăm khi, nghe bạn bè ơi nhau, đứa bên  kia đaị dương ngút mắt, đứa lại loài trên chính quê hương mình, đứa chôn đời trong men rượu. Tôi ngậm ngùi khi gặp lại nhau, nhìn đôi bàn tay em run rẩy, tuổi đời chưa kịp tri thiên mệnh đã kề cận với căn bệnh trầm kha. Nhớ lại đứa học trò nối nghiệp, khi tôi được tin báo là em đã qua đời,
vẫn không tin đó là sự thật, cho đến lủc trở về, nhìn lên bàn thờ, nhân ảnh biếc khói hương.

–         Em có nhớ Thầy Long không ?

–         Thầy là hiệu trưởng Trường Chưởng Binh Lễ, năm em học đệ nhất Thầy mang trọng bệnh nên Thầy Thành thay thế.

–         Đặng Trung Thành dạy Toán Lý

–         Đúng vậy chị à, nhưng bây giờ kiêm cả Hán Văn

–         Uả, thật sao ?

–         Em không ngoa đây, em gặp lại Thầy lần về thăm Long Xuyên, biết em vẫn yêu thích Hán Văn, Thầy thảo  hai câu đối vào tờ khăn ăn, em còn giữ lại thủ bút, sau đó Thầy bảo chờ, Thầy về nhà mang trở lại cho em quyển sách in các bài trúng giải Văn Chương  của Hội Cựu Học Sinh Thoại Ngọc Hầu tổ chức cho toàn tỉnh, năm đó do Bác Sĩ Mã Xái bảo trợ. Em cầm quyển sách mà ngẩn ngơ, ba mươi năm qua, Thầy vẫn giữ …

–         Cảm động quá hén.

–         Dạ,và thật bùi ngùi chan niềm hạnh phúc, nhìn lại hình ảnh cuả thời áo trắng tiểu thư, tuổi học trò bao giờ vẫn nhiều kỷ niệm .

–         Chị vẫn gặp Thầy Long đó em…Thầy ờ gần nhà chị.

–         Chị chuyển lời em , vấn an Thầy, em chưa có duyện gặp lại, năm ngoái chị Hoan có nhắn em về Houston họp mặt, lúc đó em đa đoan, không đi được, vẫn tiếc hoài, có các Thầy Cô đến dự đông đảo lắm.

–         Hoan nào vậy em ?

–          Nguyễn Hoan, trên em hai lớp, chị sinh hoạt thanh niên với Thầy Cơ đó chị

–         Du ca Phù Sa ?

–         Đúng vậy, chị hiện nay làm cho đài phát thanh LSR của Houston

–         Giỏi quá.

–         Dạ, chị vẫn vui như xưa, Anh chị đãi em một chầu , hen nhau khi nào chị về Chicago thì cho em làm khổ chủ lại, nhưng chưa thực hiện được. Em vừa  mới nhận được tin quê nhà, tháng sau các bạn tổ chức ngày nhà giáo, họp mặt nhau Cựu học sinh Thoại Ngọc Hầu và Chưởng Binh Lễ …cùng lớp cuả em cũng có nhiều người về , nghe mà nôn nao quá.

–         Thì em về được rồi, các cháu lớn rồi

–          Nhưng vẫn chưa xong chị à , em còn vài năm nữa

–         Cũng không chắc đâu, lúc đó lại ôm cháu thì không còn đi đâu được hết.

–         Thì coi như không có duyên thôi. Lần nầy Anh Chị sang thăm chị Ánh được bao
lâu vậy ?

–         Chỉ có vài hôm thôi em à, ờ quên nữa,  nầy cô, viết bài cho đặc san đi.

–         Đặc san gì vậy chị ?

–         Thì đặc san  cho Hội Ái hữu  An Giang , Long Xuyên chứ gì, viết gì về Long xuyên , Thầy Long mới nhắc chị, may quá, gặp cô đây thì nhắc cô luôn, có thêm một cây viết nữa

–         Em không biết thời hạn là bao lâu vậy chị?

–         Chị sẽ báo tin sau, cứ chuẩn bị viết trước đi.

Tiển anh chị ra xe, đêm đã sâu tự bao giờ. chuyện quê nhà, kể bao giờ thì mớidứt ? Bút mực nào viết lại hết những tâm tình ?  Long xuyên, âm thanh ngọt ngào như tiếng chuông ngân, trong mỗi người chúng tôi, bao nhiêu là hình ảnh, khuôn mặt bạn bè bên cạnh mái gia đình thân thương, dòng sông diụ dàng chở phù sa về lấp đầy những cánh đồng nhớ nhung. Con nước lớn ròng, không bao giờ cạn kiệt, cho dù nắng cháy khô gốc rạ, mưa lại về tắm đẫmnhững ngọn mạ xanh non.

Viết, viết như thôi thúc, như  sợ hãi không còn có ngày mai, nhưng viết thế nào cho cạn nổi thương nhớ trùng trùng?  Nghiêng về phía bên kia lăng kính, con đường học trò rạng rỡ màu hoa Phượng cuối niên học, gở từng lớp cầu vồng, màu xanh hy vọng trong đôi mắt em thơ ngày tuổi lớn, săm soi chiếc gương phản chiếu khuôn mặt rạng ngời. Mặc lại chiếc áo bà ba màu nâu đất phù sa, chiếc dầm con bơi theo dòng nước kinh đào sâu trong ruộng mạ mênh mông, để thấy mình còn thở khí trời ngọt ngào hương vị.

Long xuyên , tôi lại nhìn thấy tôi trên con đường Nguyễn Du dài những vòng xe hạnh phúc, tuổi học trò và những chiếc lá đuổi bắt nhau, cuả cành hoa  ép vào trong quyển tập
chép vội vàng những dòng thơ bất chợt, trân quí khoảng đời thanh niên rực rỡ, vô tư.

Người Long Xuyên thật thà, thuỷ chung cùng dòng sông Hậu hai mùa nước ròng nước lớn.   Tôi biết khởi điểm từ đâu để viết cho trọn tấm lòng?

 

Vũ Thị Thiên Thư

 

Mưa Mùa

 

 

 

Mưa mùa

Đôi chân bé nhỏ chạy lúp xúp theo Dì, đôi mắt sợ hãi ngước lên trời, trông theo đám mây đen kéo nhau bay vội vã, phút chốc như tấm màn che kín một góc trời. Dì bước chân nhanh thoăn thoắt, hai tay gom những tàu lá chuối xanh mượt đang trải ra phơi bên bờ ruộng đậu, Trân vừa cúi xuống nhặt một tàu lá lên, từng cơn giông gió quay quắt điên cuồng, rung chuyển những cành cây, tiếng sấm đầu mùa mưa tháng tư như tiếng bom đạn nổ ngang đầu, thân cây tre nhỏ gác ngang hai bờ mương lạn cũng run rẫy từng hồi dưới chân vội vã, Trân bịt kín hai tai, níu chân dì sướt mướt

– Con không đi, con không đi nữa đâu.

– Đừng sợ, có Dì bên cạnh, con ngồi xuống đây, chỉ còn một ôm nữa thôi, mình vào trại bà Tám trú mưa.

Mưa như trút nước, sấm chớp liên hồi, Dì ôm Trân vào lòng, mở khăn cột tóc ra lau mấy giọt nước mắt còn đọng quanh mi, tiếng mưa như điên cuồng quật vào mái lá, mấy cái cột tre lắc lư, bụi chuối phía sau hè trại oằn oại , hàng cây sua đũa bên bờ mương cúi rạp mình , Trân nhìn Dì

– Có khi nào giông cuốn luôn mái lá không Dì?

– Giông đầu mùa một tí nữa thôi, sẽ qua cơn, con ăn mạch nha nhé, Dì mang theo cho con nè.

Trân an tâm chui vào ngồi trong lòng Dì, miệng mút ngon lành viên kẹo mạch nha ngọt ngào

Giỗ Ngoại đầu mùa mưa, hàng năm phải vào tận vườn bà Tám Hiện để đốn lá chuối. Trân nhất định xin theo, trong lúc Dì còn bận cắt lá và đem phơi thì Trân lang thang thọc mấy hang cua, hay vớt mấy con ốc bưu to tướng cho vào thùng, chiều nay về Trân sẽ xin Dì cho vào bếp lửa than nướng lên ăn. Khu vườn chuối còn bao nhiêu là bí mật Trân chưa kịp khám phá. Cây ổi sai oằn nằm cạnh bờ ao, trái nhỏ ruột hồng, Dì bảo là ổi lộn kiếp

– Dì ơi, sao lại gọi là ổi lộn kiếp ?

– Tức là ổi mọc lên từ phân chim, sau khi chim ăn trái ổi chín cây, hột ổi không tiêu hóa rơi xuống đất mọc trở lại thành cây.

– Ghê quá, thôi không ăn nữa đâu.

Trân lớn lên bên quê Nội, mỗi năm chỉ được về Ngoại đôi lần giỗ Tết. Quê Ngoại là thiên đường của tuổi thơ, của thương vội yêu vàng.

* Cháu bà Nội, tội bà Ngoại *

Mẹ lớn nhất trong mấy chị em, Trân là cháu Ngoại đầu đàn, bao nhiêu thương yêu đổ dồn lại, lúc lên ba Ngoại còn ôm vào võng ru ngủ, lên năm Dì, Cậu còn thi nhau cõng qua cầu. Mùa mưa theo cậu ra vườn nhặt ốc, bắt cua đồng, tháng chạp theo ra ruộng ngủ giữ lúa, tát đìa, bắt mấy chú rùa con mang về bỏ vào nia, chọc cho chúng thi nhau bò, tháng tư vỡ đất cày bắt dế mèn, dế cơm !

Không còn nhớ bắt đầu từ bao giờ, quê Ngoại luôn thiết tha quyến luyến. Ngôi nhà ba gian lợp lá, vách gỗ xoài, nằm bên cạnh con sông nhỏ, nước mùa khô chỉ còn lại hơn thước chiều ngang. bờ sông bày hai bãi bùn đen, Trân thường thơ thẩn đếm mấy con thòi lòi trơ mắt ngó láo liên, mấy con còng già giơ cao đôi càng đỏ chạy tung tăng. Từ thềm nhà hai hàng tán đá xanh vuông vắn lót dọc theo dường xuống bến sông, nơi cây cầu ván bắt lơ lững, một nửa cuối cùng nối vào bằng một thân cây dừa già, Ngoại đẽo thành những nấc để làm chổ bám chân, thân cây luôn chìm sâu trong nước, chỉ bày ra vào mùa khô, khi nước sông rút gần cạn đáy. Cây cầu dừa mỗi khi bước xuống xuống phải lột dép ra cầm trên tay , hai bàn chân từng bước một, bám chặt xuống mắc khất, chỉ cần sẩy chân là rơi bệt xuống, bùn đen rất mềm, không đau , nhưng cũng đủ ngượng chín người.

Mùa gió bấc, Dì dậy nhóm bếp từ khi tiếng gà chưa gáy sáng, nhặt một ít lá dừa khô, xếp làm đôi, kê vào ngọn dèn dầu leo lét, chờ cho ngọn lửa vừa bén, cho vào lò, đổ lên một máng trấu, tiếng lách tách kêu vui từ ngọn lửa hồng vừa bén , mặt Dì dưới ánh lửa chập chờn sáng như ánh mặt trời mới mọc.Hàng năm, Dì bắt đầu tráng bánh từ đầu tháng chạp, bánh tráng đơn giản chỉ là thứ quà Tết đặc biệt của quê Ngoại, sau nầy Trân mới hiểu nhiều hơn , với Dì , đó là chi phí tiêu dùng cho ngày Tết, làm quà cáp kiến biếu hai bên họ hàng !

Tháng chạp, năm nào được theo Mẹ về Ngoại là cả một niềm hân hoan, hạnh phúc. Sáng sớm dậy, gió bấc gay lạnh, múc vội gáo nước trong lu, Dì với tay lấy ấm nước nóng phía sau lò tráng bánh pha thêm vào cho Trân rửa mặt. Lạnh thì đã có ống khói xây gạch tô đất bùn làm thành lò sưởi, hay đến đứng tựa bên miệng lò, giã vờ canh lửa, chờ cho viền trấu vòng quanh cháy đỏ, dùng thanh sắt dài và mỏng thọc vào khều ngang nhẹ nhàng, xúc một máng trấu khô cho vào, rồi mang cái thúng con chạy vào bồ xúc thêm một thúng nữa đổ cho đầy cái cần xé bên cạnh. Dì chỉ khen một tiếng giỏi giắn là không cần chờ nhắc nhở Trân đã lăng xoăng chạy đi ngay. Bao giờ đói bụng, chỉ giã vờ hỏi

– Ngoại ơi! Bánh nầy rách rồi, con xếp lại thành bánh ướt nhé .

Bánh tráng quê Ngoại nổi tiếng, vừa mỏng vừa dai. Ngoại chọn lúa từ vụ mùa trong năm, đến tháng chạp mang di xay thành gạo, nhặt hết thóc lúa lẫn lộn trong gạo rồi cho vào chậu ngâm qua hai đêm ,xả nước cho thật sạch nhiều lần ,rồi mới xay thành bột, lại tẻ nước và pha lại cho đúng lượng trước khi mang ra tráng bánh.Lò dùng để tráng bánh xây bằng gạch nung, có ống khói cao, miệng lò lót những thanh sắt mỏng nằm ngang như từng nấc thang dể lấy không khí cũng như chặn không cho trấu đổ ào ạt xuống làm ngột lữa . Trên mặt lò khoét hai lổ trống làm bếp, bếp trước đặt một cái chảo đụng thật to, bên vành chảo là một khung tròn bằng đất nung, trên miệng giăng một mảnh vải làm khuôn, bốn góc và bên cạnh khuôn vải vuông căng những sợi dây dài cột lại bằng gạch nung, nặng nhẹ tùy theo góc độ, vì khung vải phải căng thật thẳng mới có thể tráng bánh được. Phía sau là một bếp nhỏ hơn, thường để giải nhiệt hay đun nước sôi, nấu nướng thức ăn trong ngày cho đở tốn thêm củi lửa. vì sau khi đã đốt lò thì thường phải thay phiên nhau tráng bánh liên tục để phơi cho kịp nắng.Dì ngồi bên lò từ khi trời chưa rạng, bánh chín mang ra trải lên trên vĩ đan bằng lá dừa , chồng lại thành từng cao, chờ cho đến lúc mặt trời lên, màn sương sớm tan đi thì mang vĩ ra phơi. Thường, nắng tốt, chỉ mất chừng nửa ngày thì bánh khô, mang vào gở từng cái, đếm thành chục rồi cột lại, công việc nhẹ nhàng nhưng bận rộn suốt ngày. Lò tráng bánh xây trên khoảng sân vuông, cạnh con rạch nhỏ bên hông nhà, một hàng khạp da bò lớn kê dọc theo cho tiện việc mang nước lên, hàng năm sắp đến tháng chạp, chỉ cần tu bổ lại, đốn thêm lá dừa đan vĩ mới .Sau mỗi mùa tráng bánh Ngoại phải tháo mấy thanh sắt mỏng ở miệng lò ra , mang cất kỷ tránh nắng mưa chóng rỉ sét , chờ đến mùa sang năm, và trước khi mở lò Ngoại thường cúng kiến rất cẩn thận, mỗi mùng ba là ngày Tết nhà, Ngoại luôn nhắc bầy con cháu mang giấy vàng dán vào ống khói để mừng Tết, không được quên, ông lò nổi giận sẽ cho lửa cháy không đều, bánh tráng hỏng, thất mùa !.

Mỗi năm Dì tráng ba thứ bánh khác nhau, loại bánh tráng trắng, mỏng như lụa, dùng để nhúng nước cuốn gỏi, cá lóc nướng trui, dưa cải chua xào … Gần Tết, sau khi lúa mùa đã gặt phơi xong, cũng là muà tát đìa, cá lóc, cá trê, cá rô, cá sặc, Ngoại mang về xẻ khô, làm mắm hay chứa lại trong lu chờ con cháu về ăn Tết. Cứ mỗi lần giỗ Tết không thể thiếu món cá lóc nướng trui. Ngoại đốn sẵn tre già, chẻ thành que, một đầu chuốc nhọn, khi mang cá lóc đi nướng thì xuyên từ miệng cá xuống đuôi, cắm xuống đất cạnh bờ sông, đầu cá nằm dưới, phủ lên một ôm rơm khô và đốt lửa, canh cho đến lúc tàn lửa, khều tro than và lấy nguyên xiên cá ra, cạo bỏ lớp vẫy đã cháy đen, mang vào cuốn bánh tráng với rau húng quế, xà lách non, chấm vào nước mắm pha với me chua ngọt. Chỉ nghĩ đến đã thấy cồn cào nhung nhớ.

Bánh tráng dừa là loại bánh dầy hơn, có lẫn mè, dùng để nướng và cùng ăn với bánh phồng nếp. Ngoại thường ngâm mộng nếp mới nấu thành mạch nha để dành ăn trong năm, Trân mê lắm mạch nha kéo thành sợi trên bánh tráng dừa mới nướng nóng hổi, mấy chục năm sau, những ngày lớn khôn, tha phương, bánh kẹo đầy dẫy trong ngày đầu năm, vẫn không thể quên món ăn mộc mạc do chính bàn tay Ngoại.

Bánh tráng ngọt mỏng hơn, dùng đường cát, nước cốt dừa,và mè trộn lẫn trong bột sau khi bánh khô rất dẻo, mấy chị em mang ra cuộn lại thành từng ống như điếu thuốc giả làm ngưới lớn phì phà . Bánh ướt ngọt là món không thể quên được, Trân bao giờ cũng nhắc Dì ngâm đậu xanh bóc vỏ làm nhân bánh ướt, đậu nấu chín trộn với dừa rám vỏ bào sợi, bánh vừa tráng xong, cho nhân vào, xếp lại thành từng mảnh dẹp dài hơn gang tay, khi ăn thường cuốn tròn lại, chấm muối mè rang vàng giã nhỏ ,thật là đơn giản, thật thà nhưng mấy chục năm qua vẫn nhớ.

Dì như cái bóng thân quen, mỗi mùa mỗi thứ, bao giờ về quê cũng sắp sẳn những thức ăn Trân ưa thích. Những trò chơi hàng ngày, tập bơi trên chiếc xuồng ba lá trong con rạch nhỏ đầy bóng cây xanh, cây dầm con Ngoại chuốc bằng thanh gỗ thật mỏng, bảng dẹp gần bằng nửa gang tay người lớn, tay cầm nhỏ lại cho vừa bàn tay , cầm cây dầm xinh xắn , ngồi trước mũi xuồng khua nước, vọc nước nhiều hơn bơi, cây dầm nhỏ như bàn tay thì sức nào mà đưa đẩy? Dì luôn nhắc Trân cẩn thận, sợ lao chao rồi rơi xuống nước.

Sang mùa nước nổi, trời nước bát ngát mênh mông, sóng lúa xạ lao xao, nước trắng xoá đến tận chân trời, từng chòm cây xanh trên gò cao như vết chấm phá điểm trên nền tranh lụa trắng, ngồi trên chiếc xuồng con con, đi từ liên tỉnh lộ về, Dì thường chống tắt ngang ruộng luá, dọc theo bờ ven, ranh giới cho nhửng thủa ruộng xanh là hai hàng điên điển, thân cây nhỏ mong manh, nhánh trĩu nặng từng chùm hoa vàng rực rỡ.

– Dì ơi! Hái cho Trân chùm hoa vàng kia đi

– Ngồi yên đó, Dì sẽ dừng lại, coi chừng nghiêng xuồng rơi xuống uống một bụng nước đồng bây giờ, chổ ruộng nầy sâu lắm .

Dì chống dầm xuống, giữ cho xuồng nằm yên, lột nón lá và lật ngữa ra ,hái từng chùm hoa vàng, vừa hái vừa giải thích là hoa điên điển trộn gỏi chua, hay làm nhân bánh xèo, xào thịt nạc cũng ngon lắm. Khi đi ngang đầm nước, nhìn hoa súng dại đang khoe màu, Dì lại ngưng dầm, nhổ một bó cho Trân. Bông súng ma thân màu xanh, hoa màu trắng nhụy vàng mơ, bông súng dại thân màu tía, hoa màu hồng cánh sen nhụy trắng. Tướt bỏ vỏ ngoài, thân cây bông súng bên trong rất dòn, Ngoại thường trộn sổi ăn mắm sặc kho, hay nấu canh chua cá. Dì dạy cho Trân cách lột cánh hoa súng, bên trong đài hoa là trái nhỏ ,có hột thật mịn, ăn vào nhơn nhớt. Trên đường về còn vớt thêm được một mớ rong mã đề, lá dài lằn ngoằn, trái nhỏ nhọn như trái cà na, vỏ bao quanh có khía như mướp. Trái mã đề ăn vào cũng nhớt như hoa súng, nhưng vị ngọt hơn.Chỉ con đường về nhà đã chứa bao nhiêu kỳ hoa dị thảo của tuổi thơ, cả một kho tàng vô giá, Trân chỉ muốn được đi hoài, đi mãi, đi theo màng nước mênh mông và sóng lúa chập chùng .

Buổi tối, lúc Dì ngồi may, Trân lân la chơi bên cạnh, trong tiếng kót két của chân đạp máy may nhịp nhàng. Ngọn đèn dầu leo lét soi cái bóng dài ngoằn lên vách, chắp hai bàn tay lại, đùa với bóng mình, khi thì như người đàn bà đi chợ, khi thì cánh bướm bay chập chờn hay cô thiên nga dỏm dáng .Trò chơi thật đơn sơ chỉ cần ngọn đèn và đôi bàn tay di động soi bóng in lên vách , không gian thật bình yên, thỉnh thoảng tiếng chắt lưởi của con thằn lằn tiếc của nảo nề trên vách ván, pha vào tiếng tắc kè chậm rãi trong góc nhà .Chán chê, Trân leo lên cái võng do chính tay Ngoại thắt lại bằng sợi vải thừa Dì dành dụm bấy lâu.

– Dì ơi ! Dì hát ví dầu đi

Dì vói tay đong đưa cái võng nhịp nhàng, đuổi bầy muổi đói vo ve, tiếng Dì hát ru thật nhẹ nhàng :

Ví dầu cầu ván đóng đinh

Cầu tre lắc lẻo gập gềnh khó di

Khó đi dì cõng con di

Con đi đường bộ,Dì đi đường đời !

Đèn Sài gòn ngọn xanh ngọn đỏ

Đèn Mỹ tho ngọn tỏ ngọn lu

Anh về anh học chữ nhu

Chín trăng em đợi mười thu em chờ..

Câu ca dao ngọt như mạch nha, thấm như phù sa vào ruộng đồng. Những bài hát nghe như tiếng nước chảy, như mây bay, như hơi thở nhẹ nhàng. Giấc ngũ của tuổi thơ không bận bịu âu lo, chỉ đôi câu hò đã thần tiên đầy mộng Dì vẩn ngồi lặng lẽ bên máy may, chiếc bóng đơn thầm lặng với tháng ngày, trong lòng đêm đen có bao nhiêu ước mơ, có bao nhiêu con đường, những nhánh sông con đổ về sông lớn, nước trên nguồn về mãi biển khơi!

– Dì ơi! Sao hôm nằm ở hướng nào vậy?

– Sao hôm nằm về Phương đông, Trân có thấy chút ánh sáng lấp lánh sau rặng ô môi kia không?

– Sao mờ quá vậy ? Chẳng giống như Dì kể chuyện chút nào.

– Trân phải chờ trời tối hẳn, bấy giờ sao mới sáng hơn.

Buổi tối, nằm trên đống rơm khô, trên đầu là một vòm trời đầy sao, Trân tẩn mẩn đếm, một, hai, có những ông xanh biếc, có những ông vàng hoe, Dì bảo ông vàng sắp đi ngũ, ông xanh sắp đi hẹn hò, ông sao trắng rơi xuống trần làm vương miện tuổi thơ!

Tháng chạp, mùa khô, lúa mùa đang độ cắt, những cánh đồng bát ngát vàng ươm, con rạch nước cạn khô nâu thẳm, gió bấc thổi hiu hiu .

Cuối sân, cậu Hoàng mang nóp đệm ra trải bên cạnh đống lúa vừa đập xong, mùi rạ mới thật nồng nàn, Dì mang mấy củ khoai lang Dương ngọc ra vùi vào lửa rơm, bên thửa ruộng bên kia chỉ thấy bóng tối lờ mờ, cậu Thi vừa đi tuần một vòng, đốm lửa đỏ bay bay từ ngọn đuốc rơm lập loè khuất dần, tắt ngấm. Giữa khoảng không gian im lặng, tiếng sáo trúc của cậu Hoàng thật thiết tha, từng âm thanh nhẹ nhàng cao vút.

– Dì ơi! Sao cậu hay thổi sáo trong đêm ?

– Đêm là lúc không nhìn thấy người, chỉ thấy chính mình thôi, mai kia lớn lên Trân sẽ hiểu .

Trân cầm cái lượt sừng, chải từng dòng tóc mượt, tóc Dì dài như dòng sông, đen tuyền, che kín một bờ lưng. Vết thẹo nhỏ nằm ngang như ngấn cổ, luôn che khuất dưới dòng tóc mượt mà, Trân xoa nhẹ tay hỏi

– Dì có đau không ?

– Lâu lắm rồi, đã không còn cảm giác nửa.

– Tại sao Dì lại mang vết thẹo vậy?

– Lúc nhỏ như con, Dì bị lưởi hái cắt.

Dì có ấm ảnh xoả tóc chụp ngoài hiệu Tân Thuận , mái tóc dài gần tới gót chân, Ngoại bảo đốt đi, người trong ảnh nhìn buồn như vọng phu, Trân xin lại, mang tấm ảnh cất đi. Những năm trung học sau nầy , tấm ảnh ép vào quyển nhật ký mang theo từng lớp học , cuối cùng thì chung với mớ sách vở cháy theo ngọn lửa hồng trong chiến dịch văn hoá, số phận rồi cũng trở thành tro bụi như lời Ngoại ngày xưa .

Dì theo chồng, khăn voan áo lụa, đầu mùa mưa. Không còn những ngày theo nhau ra đồng bắt cua, bắt ốc, mỗi lần về thăm lại thấy Ngoại lưng còng hiu hắt hơn. Những ngày giỗ Tết, Ngoại vẩn cắm cúi sữa soạn, mỗi vụ mùa màng vẫn dành dụm phân chia, bánh tráng Tết quê Ngoại không do đôi bàn tay của Dì, hương nhạt nhẽo. Bấy gìơ thì Trân lớn hơn , thường theo Ngoại đi cúng giỗ các nơi trong họ hàng, mùa hè, dã dám một mình theo xe đò về thăm quê Ngoại.Trân nhớ như in, tháng nào giỗ nhà ai, năm nay trong thân tộc nhà nào cưới gã, mỗi lần đi thăm họ hàng Ngoại luôn khoe

– Nhìn con bé, năm nay đã lớn bộn rồi đó.

Lần theo Ngoại sang ăn giỗ bên nhà chồng và luôn thể thăm Dì, Trân theo Dì vào buồng hỏi nhỏ

– Dì ở đây có buồn không? Về thăm Ngoại không có Dì, nhà vắng quá.

Đôi mắt Dì long lanh Chiều xuống, Ngoại bảo chào thưa ông bà để trở về, Trân nhìn thấy Dì đứng tựa cửa buồng đôi mắt đỏ hoe. Trân trở vào ôm chặt Dì rồi theo Ngoại xuống bến sông, nhìn lại vẫn thấy bóng Dì đứng tựa gốc cây dừa, thật nhỏ, nhìn theo..

Năm học đệ ngũ ở tỉnh lỵ ,về thăm nhà nghe mẹ kể lại: Dì đã ra riêng, Trân đón xe đò về thăm, căn nhà lá nhỏ còn thơm mùi tre mới đốn, nằm dọc theo tỉnh lộ ,cách chợ quận hơn cây số, chung quanh nhà trồng một vài cây ăn trái lưa thưa, hai cây dừa lửa vừa đơm bông bên cạnh cái mương đầy nước trong vắt. Vừa bước xuống xe, nhìn sang, thấy Dì đang hái rau, ánh mặt trời chói chang, nghe tiếng xe ngừng, Dì che mắt, ngước mặt, thấy cái bóng nhỏ quen thuộc băng qua đường, mừng đánh rơi cả rổ rau trong tay.

– Sao con dám đi một mình vậy?

– Con nhớ Dì !

Nắng ban trưa long lanh trong đôi mắt, Dì nắm bàn tay như những ngày nhỏ dại, đôi bóng ngã theo bước chân reo vui .Căn nhà đơn sơ, ngăn nắp, trong mỗi góc có bàn tay chăm sóc của Dì, bên cạnh cái máy may, quyển sổ tay nhỏ, ghi lại tỉ mỉ từng đồng chi thu, trong giàn bếp treo thẳng hàng mấy cái nồi chảo, ấm nước, khung cửa sổ nhỏ nhìn ra giàn mướp đầy hoa, nằm bên cạnh mảnh vườn rau muợt, ở cuối vườn, dây mồng tơi bò quấn quýt quanh mấy cái cọc tre. Chiều xuống, Dì ra giàn cắt trái mướp đầu tiên đãi con bé canh cá rô, dượng vớt mấy con ốc bưu to tướng dưới mương về làm quà

– Sao dượng lại biết con thích thứ nầy vậy ?

– Thì Dì vẩn nhắc con chứ ai, con là cái bóng của Dì mà.

Buổi tối, nằm trăn trở trên chiếc giuờng tre, Dì vẫn xoả tóc ngồi bên chiếc máy may tiếng chân đạp đều đều, Dượng chuốc tre làm đũa cạnh ngọn đèn dầu lung linh, Trân nhớ làm sao, tiếng hát êm ái, bản vọng cổ sáu câu dài tha thiết, hay những bản vắn ngọt ngào, điệu Nam ai u uẩn, bài Lưu thuỷ hành vân nhẹ nhàng!

– Dì ơi! Sao dì không hát nữa vậy ?

Những năm tháng sau trung học đi xa, quay quắt những vòng soay tuổi lớn, lâu lâu vẫn trở về thăm ngôi nhà nhỏ với Dì Dượng và mấy đứa trẻ thơ, căn nhà đã bao nhiêu lần dựng lại, mái lá thay bằng mái tôn , vách tre thay bằng vách ván, hàng cây ăn trái đã lần lượt bao mùa. Hai cây dừa xoã lá bên mương giờ đã vươn cao quá nóc nhà. Mấy đứa bé mừng chị về đứng thập thò trong khung cửa.

Từ giã con đường liên tỉnh, khăn áo về thủ đô, những tháng đầu mùa mưa lướt thướt, nằm trên gác nhỏ hầm hập sức nóng ban ngày, tiếng mưa trên mái tôn, tiếng sấm đầu mùa chìm lắng trong trăm ngàn tiếng động của thành phố. Sách vở nhai như kinh kệ, nhìn ra vòm trời hoả châu loé sáng đêm đêm, những ông sao sáng trong ký ức miệt mài, không biết ông sao trắng nào đã rơi xuống thành ước mơ, bùng lên rồi tắt hẳn? Mưa đầu mùa, mưa điên cuồng, mưa thịnh nộ, mưa cuốn trôi bao nhiêu giấc mơ, từng ngày xây đắp, mưa gào thét nhớ thương khung trời cao vút xa xôi !

Đất trời đảo lộn, dã thú nhập thành, lang thang phơ phất, lúc trở về ngang tỉnh lộ ghé lại thăm Dì Dượng, vẫn mái nhà xưa, hai cây dừa sắp lão, Dì bế thằng bé con èo uột trên tay, mặt buồn hiu hắt, nhìn quanh bầy trẻ nhỏ cũng im lìm ngơ ngác

– Sao em nóng quá vậy Dì? Em bệnh từ bao lâu rồi ?

– Đã hơn tuần nay rồi, Dì cũng không còn biết phải chạy nơi đâu nữa.

– Dì sửa soạn đi, mình đưa em đi bệnh viện Nhi đồng chửa trị .

– Mình làm sao đi được con? Thời buổi nầy !

– Còn nước, còn tát.

Thằng bé quặt quẹo, ngày nóng ngày lạnh, đêm từng đêm Dì ngồi ôm con trên tay, tiếng ru đứt doạn. Trân chạy đi chạy về, mấy vòng xe đạp con con, từng hộp thuốc chạy ra chợ trời tìm mua, Trân lén mang cái đồng hồ tay đem bán, Dì cũng bán đến chiếc nhẩn vàng cuối cùng thì thằng bé xuất viện, lồng ngực ốm trơ xương nhưng nhịp thở dều đặn, Dì không giấu nổi vui mừng, thôi thì đổi tên nó lại là Trường An, chỉ mong sao cuộc sống nó sau nầy như tên đặt .

Lần cuối cùng, sau bao nhiêu chuyến trốn đi, trở về, thất bại, lần nầy như một điềm báo, Trân ghé ngang thăm Dì trước khi lên đường đến điểm hẹn, uống ly nước chưa xong đã từ giã, Dì tần ngần đứng tựa cửa trông theo , bao nhiêu lần, từ thuở con bé ôm chân, đến khi thành thiếu nữ thướt tha áo lụa, bao giờ cũng là bóng Dì đứng trông theo Trời chuyển mưa, có phải là giọt mưa đầu mùa lất phất, giọt mưa lăn dài mặn đắng trên môi !

Vũ Thị Thiên Thư

 

Nếp Cũ

Nếp cũ

 

-Tay trái giữ ngay chính giữa , tay phải cuộn lại cho tròn, cho thật khít, bằng không thì bột chảy ra , nhân bánh sẽ bể.
Ngoại ngồi trên cánh phản trong nhà bếp,chung quanh là một bầy con gái, trước mặt mỗi cô bé là hai chồng lá chuối xanh mượt , nửa hình bán nguyệt ,nửa hình lục giác dài.Mợ ngồi bên trái với thau bột nếp nhồi bằng nước đường và mâm nhân đậu xanh bóc vỏ viên tròn như trái quất .Dì ngồi bên phải với thau bột nhồi bằng nước ấm và mâm nhân dừa xào đường trộn đậu phọng rang giã nhỏ. Ngoại đang dạy cả bầy cháu gái gói bánh ích .Chúng tôi là một lũ trẻ nhỏ ham chơi đùa ,Ngoại vẩn thường nhắc nhở tất cả:
– Con gái ,nếp nhà ,phải lo học làm các thứ bánh trái ,nấu nướng thức ăn,thêu thùa may vá ,dù trong nhà có kẻ ăn ngươì làm ,mình cũng phải biết cách ăn ở để dạy dỗ kẻo chúng khinh nhờn.
Ngoạị goá chồng từ thơì xuân sắc . Một đời tần tảo nuôi bầy con thơ daị . Từ công việc đồng áng bên ngoài cho đến việc chăm sóc nhà cửa bên trong ,tính toán chi thu ,trả công người làm…Mỗi năm, cần bao nhiêu giạ lúa thóc để ăn hàng ngày cho đến chi dùng trong các lần giỗ Tết, bao nhiêu lít đậu ,lít mè,con heo,lứa cá, mỗi thứ đều tính toán thật chính xác, chi ly .
Tháng tư ,đầu muà mưa,cũng là ngày giỗ ông . Ngoại hay kể chuyện ông thuở sinh tiền,ông thích mặc quần áo bà ba lụa trắng,đi guốc dông,sáng lập hội tài tử,vào những tối sáng trăng,cùng chúng bạn bè xuống nhà thuỷ tạ hoà đàn,ngón độc huyền của ông như “ nước chảy mây trôi “… Ðến năm đầu thời kháng chiến Ông bị quân giặc mang ra bắn trước sân nhà ,không bản án ,không cáo trạng ,chỉ vì ông để tóc dài búi tó như tín đồ Ðạo Hòa Hảo và trong nhà thờ trần nâu . Ngoại ôm con đỏ ra xin xác chồng về chôn cất .Từ đó ,mang hết aó luạ ngà nhuộm nâu ,tập ăn trầu , thu xếp nhà cưả lui về cạnh nhà bố mẹ chồng dựng mái lá nuôi con . Tuổi chưa đầy năm cậu mất cha ,mẹ tôi vưà tròn mười sáu.Ngoại còn giữ lại đôi guốc mộc,cái gối kê đấu bằng gỗ mun,mấy trang giấy lụa bút tích của ông mối mọt ăn thâm thủng nhưng Ngoại không nở rời. Mấy bà cô dì trong họ thường bảo chúng tôi:
– Ngoại con lúc đương thơì là hoa khôi trong làng đó,bao nhiêu người đi hỏi cưới, nhưng Ngoaị chỉ ưng lấy Ông con.
Ngày Ngoại theo chồng, để lại bao nhiêu chàng si tình ngơ ngẩn .Ðến khi mất chồng, cũng đã bao nhiêu người đến ngấm nghé , Ngoại nhất quyết thờ chồng , chỉ mặc aó nâu ,đầu quấn khăn rằn đen , lo chăm sóc ruộng vườn, nuôi dạy bầy con .
Quê Ngoaị là thiên đường tuổi thơ diệu vợi, hàng năm vào những ngày giỗ Tết chúng tôi xôn xao đợi chờ . Từ tỉnh lộ đi bộ vào nhà chừng ba cây số ,nhưng tuổi nhỏ xa xôi tưởng như nghin dặm.Mỗi lần về thăm, Ngoaị bảo Dì mang xuồng ra đón tận bến sông . Ngày nước ròng , con rạch thu nhỏ lại, phơi hai bờ bùn đen ,bọn trẻ con thường mang mảnh ván ra sông chạy chùi, chúng tôi nhìn thấy thật thèm thuồng, nhưng Mẹ và Ngoaị cấm không cho xuống bờ cùng chơi vì sợ miểng chai ,gai nhọn nằm lẫn lộn trong bùn cắt thịt đứt da.
Nắng tháng hai, mưa tháng tư , mỗi năm tháng chất đầy kỷ niệm .Những ngày tung tăng theo Dì ra vườn cắt lá chuối về gói bánh tét,bánh ích đám giỗ , Dì lấy cho cái áo bà ba cũ rách mặc vào,vì sợ mũ chuối dính áo mới sẽ biến thành màu nâu, không tẩy được . Môĩ bụi chuối chỉ dùng liềm cắt hai tàu lá , mang ra phơi nắng cho dẽo , dùng dao rọc lấy sống lá phơi cho héo lại để dành chẻ dây cột bánh tét , thân lá xếp laị từng xấp mười tấm , môĩ tấm mang về xé nhỏ thành từng manh dài chừng ba tấc , manh lớn hình chử nhật thì gói bánh Tét ,manh nhỏ hơn dài chừng hai tấc thì danh theo hình lục lăng dài dùng làm lá bao bánh ích ,nhỏ nhất thì danh theo hình bán nguyệt để làm lớp gói bên trong của bánh ích . Thuở nhỏ , công việc chính của chúng tôi là ngồi lau từng manh lá ,chờ Dì danh góc cho tròn,mang lá vụn ra góc hè chơi trò nấu cơm ,bán hàng, cùng mấy anh chị em con Dì con Cậu . Ðến tuổi lớn hơn thì được Ngoaị dạy và cho thực tập gói bánh .
Bánh ích gói bằng hai lớp lá chuối ,lớp bên trong dùng lá hình bán nguyệt , cuộn lại hình quặng , Mợ Hai nhồi bột nếp trong thau thật to ,ngắt một ít bột, đặt nhân bánh vào giưã viên lại cho tròn ,cho vào quặng lá chúng tôi đang chờ,tay Mợ thật nhanh ,thật đều , Ngoại dạy chúng tôi dùng tay xếp một bên lá nằm xuống ,ngón cái giữ laị , sau đó xếp cạnh đôí diện , phải giữ cho bốn cạnh thật đều hình tháp,bốn góc cân đôí ,đỉnh cao vừa vặn , đặt bánh vào lớp lá bao bên ngoài hình lục giác ,cạnh trên phủ xuống nằm bên trong ,cạnh dưới xếp lên bọc bên ngoài ,chận ngón tay và xếp hai bên lá lại thành hình tam giác cho đều, bẻ lên hai bên . Bánh sau khi gói xong ,hấp chín chờ cho nguội, mang xếp vào thúng theo từng loaị bánh ngọt hay bánh trắng và làm dấu để khi mang ra đãi họ hàng không phải phân vân bơí tìm .Cái hạnh phúc rộn ràng của chúng tôi bấy giờ là tranh nhau lời khen cuả NgoạI:” con gái tinh ý ,khéo tay học nhanh và làm gọn gàng .”
Bên cạnh bánh ích,bánh tét là thứ không thể vắng trong các lễ giỗ , Ngoại thường gói nhiều loại bánh tét , bánh tét nhân đậu mỡ ,nhân đậu ngọt ,nhân dừa xào đường ,và nhân chuối là món chùng tôi ưa thích nhất …Trước khi học gói bánh tét ,Ngoaị dạy cho cách cột bánh . Bánh cột bằng dây chuối, lúc cắt lá, rọc lấy sống mang ra phơi nắng cho dẻo , chẻ thành sợị ,thật mịn , thật đều , nhỏ quá dây sẽ đứt ,to quá cột vào đòn bánh không đẹp,trông thô kệch . Lúc cột dây không được xiết quá chặt ,bánh không chín dều , nhưng xiết không chặt thì bánh sẽ nong nước ,nhảo nhè nhảo nhét. Bánh nấu chín mang vào treo trên sào tre trong nhà bếp,chờ đến lúc mang ra cúng kiến và đãi họ hàng, Ngoại lại dạy thêm cho cách cắt bánh tét, cắt bằng dao khoanh bánh sẽ méo mó , phải bóc hết lá ra, dùng chính lá gói bánh lót xuống dĩa, bằng không khi đặt vào bánh sẽ dính, dây cột bánh gỡ ra một sợi dài, dùng dây nầy để cắt, khoanh bánh sẽ tròn trịa ,nếp và nhân thật cân đối, không trộn lẫn nhau, bánh chín đều ,đó là con gái nhà, khéo léo ,thành công .
Nếp dùng gói bánh tét Ngoại cẩn thận nhặt từng hạt thóc , ngâm nước qua đêm , dậu trắng phải chọn loại hạt nở đều , dừa khô không được khô quá . Tuỳ theo loại nhân, nhân đậu ngọt ,nhân đậu mỡ hay các loại nhân khác mà dùng nếp xào vơí nước cốt dừa , hay dùng nếp ngâm trộn vơí dừa khô nạo nhỏ. Mỗi đòn bánh dài gần hai tấc , dùng một chén nếp đầy vun ,đã xào hay ngâm sẳn trộn với muối ,dừa ,đậu trắng , lá chuối xếp chồng lên nhau ,nếp trải mỏng, nhân xếp vào giữa ,hai tay phải thật nhanh lúc cuộn nếp lại thành hình ống, bẻ hai đầu bánh cho vuông vắn, dùng dây cột bánh ,mỗi nuột dây cách nhau chừng hơn một phân tây , bánh cột xong cho vào thùng lớn ,bánh nhân đậu mỡ xếp bên dưới,đậu ngọt kế tiếp, bánh nhân chuối là lớp trên cùng . Bánh tét thường phải nấu cả ngày, củi đun là loại xấu, gốc mắc,cành to quăn queo, không thể chẻ được, nhưng củi nầy lại cho ra than thật hồng ,thật nóng, thuở nhỏ ,chúng tôi hay quanh quẩn bên cạnh khều than ra nướng khoai , nướng bắp … đôi khi, Ngoại nướng bánh phồng nếp,bánh tráng dừa , mang cả mạch nha trộn mè ra kéo thành kẹo bánh tráng làm quà vặt cho trẻ con .
Bên cạnh bánh tét ,bánh ích còn có bánh nước tro,là thứ gói bằng lá tre. Nếp dùng để gói loại bánh nầy Ngoại mang ra ngâm trong nước tro đốt từ cây đước ( là một thứ cây tạp sau khi đốt thành tro ,cho vào hủ nhỏ ,đổ nước vào , sau đó lọc lấy phần nước trong ,chỉ có nước tro nầy mơí có đủ độ mặn để ngâm nếp).Thường phải ngâm mấy ngày, xả laị nước lạnh cho nếp thật sạch và thật mềm.Dùng lá tre tàu để gói bánh, hình ống như bánh tét , hình vuông như bánh chưng , hình tháp như bánh ích hay bánh ú . Khi nấu bánh, Ngoại dùng một loại măng của cây tre gai thả vào nước làm màu nhuộm.Bánh nước tro là một thách thức cho chúng tôi, lá tre rất dòn, lúc gói phải nhẹ tay, cột bánh phải nâng niu, lá rách, nếp trộn nhân, bánh vỡ,măng tre phải đúng lứa không đốn măng quá già ,bánh đen,quá non bánh trắng…Ngoại thường nhắc nhở lúc gói cũng như khi ngồi canh bánh, lửa đều,thêm nước nóng ,không để nếp sượng, bánh thành công khi mở ra phải trong như hổ phách, ăn vào miệng vừa dẽo vừa dòn,nếp quyện vào nhau không nhìn thấy hột,nhân bánh nhìn thấy nằm ngay ngắn,vừa vặn bên trong …
Bao nhiêu là kinh nghiệm ,Ngoại mang ra dặn dò cùng bầy cháu ăn chưa biết no, lo chưa tới .Bao nhiêu là thứ bánh trái mộc mạc của quê Ngoại xa xôi trong trí nhớ, bao nhiêu lời cân nhắc chi ly ,như mực in ,như dao khắc…Hình ảnh Ngoại ngồi bên khai trầu, ngọn đèn dầu lung linh, hay đứng bên cây cầu dừa cạnh bờ sông lúc đưa con cháu xuống xuồng về tỉnh lỵ. Bóng Ngoại gầy gò đứng thắp nhang trước bàn thông thiên bên cội mai vàng nở rộ mỗi dịp Tết về .Hình ảnh nối liền với nếp cũ với thiên đàng tuổi thơ ,với quê hương chắt chiu thương nhớ …
Chúng tôi, bầy cháu Ngoại ở xa , mỗi lần về thăm như ngày là hội hè , bao nhiêu thứ bánh trái làm sẳn, bao nhiêu tình thân yêu . Sống bên Nội,chúng tôi quen với chợ buá hàng ngày, dù có được rong chơi thì cũng chỉ quanh quẩn dăm ba nhà lân cận.Về quê Ngoaị, thuở nhỏ là cả môt thiên đường nở hoa, nhà Ngoại cách liên tỉnh lộ Long Xuyên Cần Thơ có mấy cây số đường mòn, dăm ba cây câù tre, những ngày đầu mùa mưa,đất sét lầy lội,mỗi lần đi qua cầu là một lần sợ hãi, hai bên đầu cầu mỗi nhịp là một thân cây gòn trơn bóng, nhịp giữa nối nhau bằng hai cây tre nhỏ đong đưa kẻo kẹt theo từng bước chân qua,hai chị em cứ đứng nhìn nước chảy xiết dưới chân cầu, không chịu đi ngang ,Mẹ phãi bế từng đứa một sang bờ .
Lúc Dì chưa theo chồng , cứ mỗi lần giỗ tết về thăm, Ngoại thường bảo Dì bơi xuồng đưa Mẹ con ra tỉnh lộ, con rạch nhỏ, tháng nước ròng ,bông Tra rụng theo dòng trôi mênh mang ,Mẹ dạy hai chị em đếm bông cho quên đường dài
– Bông màu vàng cho Ba ,bông màu hồng cam cho Mẹ , một bông nho nhỏ ,hai bông to to , ba bông dật dờ ,bốn bông bay bỗng …tuổi thơ lồng lộng …
Ngoại chuốc cho mâý chiếc dầm con con , hai đứa tranh nhau bơi theo Dì và Mẹ ,
vừa bơi vừa vớt lá rong xanh , vớt được trái mã đề tranh nhau cắn vỡ ra lấy hột,hột nhỏ như trái sung , nhơn nhớt như trái bông sún,bao nhiêu là kho tàng tuổi thơ trôi theo dòng sông nhỏ, mãi chơi quên mất cả chuyện bơi theo mái dầm, Dì và Mẹ phải bơi nhanh cho kịp con nước , lúc Dì trở về ngược nước và vắng Mẹ con sẽ buồn nhớ biết bao.
Mỗi lần được về thăm quê Ngoại là một lần xôn xao ,nắm níu, dù chỉ cách nhau có mười cây số đường dài ,nhưng thuở xưa chưa có phương tiện giao thông , khoảng đường dài như quan san cách trở. Thuở ban đầu Ba Mẹ còn thường bơi xuồng vê thăm,đến lúc sinh các con, thêm bận bịu bán buôn,Mẹ ngoài những ngày giỗ chính và ngày mùng hai Tết, rất ít khi về .Cho đến lúc các con lớn lên,lúc nào cũng thèm thuồng ,hình ảnh quê Ngoại gắn liền với những trò chơi thơ ấu, hái lá ,bán hàng, cút bắt ,nhảy dây … con đường trước sân nhà lót một hàng tán đá xanh vuông vắn ,từ thềm nhà xuống mãi tận bến sông,thuở nhỏ chân chim , con đường nầy như một trò chơi chạy nhảy,với đôi bàn chân bước ngắn ,mỗi viên gạch lót dài là mỗi bước phiêu du,một chân trời mới lạ, mê mãi ,một hai …
Bên hông nhà, vườn trầu xanh mượt lá,mỗi chiều theo cậu mang gàu ra múc nước sông lên tưới mấy nọc trầu ,Ngoại căn dặn mỗi gốc trầu phải đếm bao nhiêu gàu nước ,và mỗi dây trầu chỉ được hái hai lá vàng mơ. Trầu hái xong, mang ra rưã sạch, giũ cho hết nước và xếp vào khay .Tôi vừa tưới nước,hái trầu vừa thắc mắc :
– Ngoại à,tại sao chỉ hái trầu buổi chiều vậy ?
Ngoại nhặt lá trầu vàng tươi , ngắt bỏ đuôi nhọn,chẻ một lát cau dầy ruột trắng tinh,têm trầu với ít vôi màu đỏ thắm , cho vào miệng nhai,nhổ nước vào ống ,nhả bã trầu,từ tốn trả lời:
-Chuyện kể lại ,có cô dâu mới về nhà chồng ,buổi sáng tinh mơ ra vườn hái trầu vào mời chào, chẳng may, khi phu quân ăn vào ngã lăn ra chết, làng bắt tội giết chồng, thị kêu oan,lúc quan Huyện xét tìm tội trạng ,hỏi chuyện ,thị kể lại đầu đuôi, quan bèn ra vườn trầu tìm kiếm mới thấy dưới nọc trầu có dấu rắn bò ngang , theo dấu nhìn vào lá trầu vàng còn đọng sương mai, quan nghiệm rằng :
-Ðúng như Quan nghĩ,thị không cố ý thuốc chồng ,đêm qua rắn độc bò ngang vườn trầu uống sương đọng trên lá ,nhả nọc lại ,thị vô tình hái nhầm lá có nọc rắn ,chồng ăn phải, trúng độc mà chết .
Nhờ Quan sáng suốt ,thị được minh oan .Quan dạy dân sau nầy không nên hái trầu đọng sương, và nhất là phải rữa cho sạch trước khi ăn.Lâu ngày thành thói quen, dân làng hái trầu vào buổi chiều, rưã và giũ cho sạch,sớm mai mang ra nhúng nước trầu sẽ tươi tắn lại như lúc mới hái thôi.
Câu chuyện hái trầu chỉ là một trong kho tàng cổ tích Ngoại thường kể , những tối chong đèn quay quần bên bộ ván gõ, Ngoại kể chuyện anh hùng thuở xưa, chuyện bà Triệu cởi voi đánh giặc,chuyện Nữ tướng Bùi thị Xuân quấn vải quanh mình để lúc chết thân thể không phơi bày,chuyện Ðinh Bộ Lĩnh tập trận cờ lau, hay gương hiếu đạo Mục Liên cõng Mẹ vượt chín tầng điạ ngục,thành tích rằm tháng bảy là ngày xoá tội vong nhân…Nhưng thật gần và thật luyến lưu,chuyện ông tôi thuở sinh tiền và hội bạn tài tử, những cuộc hoà đàn đêm thanh,hay hát hò đối đáp, những câu hò tình tứ ,những bản vắn điệu ngũ cung ai hoài, hay bài vọng cổ mênh mang. Thỉng thoảng, chúng tôi lại xin Ngoaị hát ru,ngững câu ca dao ngọt ngào, những câu tục ngữ thân quen, tiếng võng đưa nhịp nhàng ,trong trí nhớ nhỏ nhoi cuả tôi ,Ngoại như quyển sách chứa bao nhiêu điều huyền diệu…
Những ngày lớn hơn, mùa hè về thăm ,nằn nì đòi Cậu dẩn ra chòm mã đá xem trâu ,con trâu già của bà Năm cột gần bụi tre , cặp sừng cong vút, hơi thở phì phò, tôi chỉ dám thập thò đứng từ xa len lén nhìn, chuyện ngồi lưng trâu thổi sáo,chuyện mục đồng cờ lau, chuyện giết giặc cứu nước chỉ nằm trong sách vỡ học trò,Làm sao có can đảm leo lên lưng con trâu cổ bóng ngời mà học đòi làm mục đồng ngồi trâu thổi sáo? ngay cả lúc nhất định đòi Cậu dạy cho thổi sáo,học bao nhiêu lần ,nhưng thổi lên như… thổi lửa.Chả bù với tiếng sáo của Cậu , những đêm sáng trăng thanh âm bay thật cao,thật xa, bên kia sông nước,trên ngọn trúc lao xao,dưới bóng dừa thì thào…
Ngôi miếu cổ xây bằng đá xanh nằm bên vàm sông , trong miếu thờ lủ khủ mấy ông Tà bằng đá ,thân hình như quả trứng tròn trơn bóng , trước miếu lau lách um tùm,bên cạnh cây gừa già,tàng lá che ra tận nưã bờ sông, rễ mọc thòng xuống bùn đen , lê thê như tóc thiếu nử ngồi hong trong sân nhà ngày nắng hanh.Con sông nhỏ,nước chảy dật dờ, cây gừa tuổi già hơn tuổi Mẹ, gốc to đến mấy người ôm, chúng tôi thường rũ nhau trốn ngũ trưa, dùng cành lá che nhà trên nhánh ba , dùng rễ gừa làm màn, mỗi nhánh cây theo tháng năm lớn lên là một lần tuổi thơ vụt thoát. Chán trò trên cây,lại cút bắt dưới nước, tập bơi bằng hai trái dừa điếc đóng hai đầu cành tre , cái miễu ông Tà cũng được chúng tôi thăm viếng thường xuyên. Huyền thoại linh ứng cuả ông Tà không đủ ngăn sự tinh nghịch cuả trẻ con, chúng tôi chẳng biết ông Tà thường bắt trẻ con nóng đầu, hay hành hạ mấy đứa con trai nghịch ngợm vì tội đái bậy vào thân ông ,chỉ thấy mấy cục trứng đá trơn nhẳn nhụi lây lất nằm trong miếu rong rêu, thế là mấy chị em rũ nhau mang hết xuống sông dùng xơ dừa kỳ cọ cho đến sạch bóng, còn bảo ông Tà ở dơ quá, người đầy đất bùn. Mấy anh chị con Cậu sợ hãi chạy vào mách Mẹ ,Ngoại lại lễ mễ mang bánh trái ,đèn nhang ra cúng tạ lỗi và xin cho trẻ con nhỏ dạ non lòng .
Những năm lớn lên, về Ngoại không còn những trò chơi thơ ấu. Con gái nếp nhà, phải chăm lo công việc may vá, thêu thùa,bánh trái, nấu ăn .Những ngày giỗ chạp, những ngày cưới hỏi, Ngoại mang bầy cháu gái ra truyền lại kinh nghiệm chăm chút trong ngoài, bánh mứt mỗi thức mỗi mùa.Dù là con gái thị thành nhưng không thể quên được nề nếp,dù không chính tay làm cũng phải biết cách tổ chức xếp đặt để chỉ bảo cho kẻ ở ngườI ăn .Mỗi lần trong họ hàng có đám tiệc, Ngoại lại mang bầy cháu trai gái đến phụ giúp,các anh thì lo việc dọn bàn ghế , các cô thì lo bếp núc trong nhà. Ðám cưới ở nhà quê là nơi hẹn hò gặp gỡ, nơi trai thanh gái lịch có dịp làm quen, cũng là nơi mấy bà mẹ chồng tương lai thường vào tuần tra trong đội ngũ con gái, nhìn quanh chọn lựa, xem từ hình dung đến cung cách, giã vờ chuyện nọ trò kia ..,bao nhiêu mánh khoé Ngoại thường nhắc chúng tôi coi chừng,dù không có ý định lấy chồng cũng không nên có lý do cho người khác chê cười dòng dõi tông môn.
Ngày người chị họ theo chồng, đứa cháu đầu tiên sang nhà khác ,Ngoaị dặn đôi câu, đêm lạy chào xuất giá, Ngoại cẩn thận xếp một hộp kim chỉ để vá may,một hộp bánh phòng khi đói lòng, những gì cận kề học hỏi …vượt cạn,biển đông …
Tết ,năm Ngoại bảy mươi,họ hàng đến chúc mừng, mỗi người một câu , nào phúc lộc, nào sức khoẻ,con đông, cháu đầy.Ngoaị ngồi lặng lẽ, con cháu về ,nhưng chưa đủ, còn một nửa bầy,thật xa, cách một biển khơi ,nửa vòng địa cầu … Quê hương tuổi nhỏ gói theo bầy cháu Ngoại tha phương ,những lần giỗ Tết hiu hắt, khoanh bánh tét gói bằng giấy nhôm tuy không có mùi lá mới, nhưng gói thật tròn cái nếp cũ bấy lâu.

Vũ Thị Thiên Thư

[ Chia niềm hạnh phúc  tuổi nhỏ trong bầu trời quê hương yêu dấu ]

 

 

Ôi ! Niềm nhớ Quê Hương

Ôi ! Niềm nhớ Quê Hương

 

 

 

Tôi đang cúi xuống nhặt những lá khô từ muà thu trước, trời trong xanh ngắt, hương mùa xuân phảng phất, cỏ non lấm tấm xanh, nhớ những ngày nắng mới aó luạ bay, lang thang bước chân chim non nhảy nhót, đường về quê Ngoại miên man niềm hạnh phúc.

Roman cầm mấy chùm hoa Lilac trĩu nụ tím, khuôn mặt tươi cười , ánh mắt diụ dàng. Tôi nhìn nét rạng rỡ cuả anh ta, thầm nghĩ hôm nay ngày chúa nhật, nhưng hắn ta chưa say, hẳn là một phép lạ.

– Dolly, nhìn đây nè, có đẹp không??

– Vâng , rất đẹp, sao anh hái sớm vậy? Không chờ cho hoa nở à?

– Hái tặng cho Dolly đó.

– Oh! Cảm ơn Roman, thế anh đã hái cho Allena chưa? Cô ấy đâu rồi?

– Allena còn ngủ, mới về sáng nay.

– Cô làm tối qua à ? Thế các con đâu rồi?

– Vâng, chúng đi chơi với bạn rồi, nầy Dolly có muốn hoa thì cứ hái vào nhà cắm nha, hoa nở nhiều lắm đó.

– Cảm ơn Roman

Tôi mang mấy chùm hoa vào nhà, lấy cái bình thuỷ tinh, đổ nưóc vào, những chùm hoa Lilac màu tím, nhìn như những hạt ngọc long lanh, mai ngày sẽ nở thành những đoá mượt mà.

 

Roman là người láng giềng, khi chúng tôi về xây tổ, anh ta và Allena cũng như chúng tôi, đang tha từng cọng cỏ rơm. Đứa con đầu hãy còn đỏ hỏn trên tay, thằng bé bị bệnh khóc đêm, nghe tiếng khóc từng đêm đoạn đoài lòng mẹ. Sang xuân, khi những giọt nắng ấm bám nhẹ nhàng xuống thảm cỏ nhung, bầy chim non bay ra khỏi tổ, khung trời cao bát ngát xanh, đất trải bao la, hoa Dendelion nở vàng rực rỡ . Allena mang con ra sân sau, nhìn thằng bé tóc mưọt như tơ nụ cười như hoa nở, tôi suýt soa trầm trồ. Có còn gì hơn mối dây mẫu tử, như những truyền cảm có chung thiên chức Mẹ. câu chuyện với Allena đang quay quanh chứng bệnh trở dạ, khóc đêm cuả trẻ con, Roman bước vào, nghiêng người cuí chào tôi rất ư lịch sự, nâng bàn tay tôi nhỏ nhắn lên môi hôn, lăng xăng vào nhà mở tủ lấy ly rót rượu nho mời . Chuyện trò chưa được dăm câu, tiếng Anh cuả tôi khả dĩ, với Allena thì hoàn toàn lưu loát, vì cô sinh ra nơi đây, nhưng ngôn ngữ cuả Roman, mở miệng ra, câu nói nào cũng bắt đầu bằng tiếng chưởi thề dòn tan , hai tai tôi nóng bừng, vốn tiếng Anh tôi học qua, cộng thêm với tháng ngày làm việc, mớ từ ngữ không tra được trong tự điển, thứ tiếng Anh học từ những cơ sở lao động, nặng nề hơn những chiếc loa phóng thanh, màng tai tôi như đang bị tra tấn, không còn đủ máu luân chuyển, khuôn mặt đỏ ngượng ngùng, Allena biết tôi không quen nghe chưởi thề, cô xin lỗi rối rít, và giải thích thêm, Roman sinh ở Ba Lan, cách Warsaw chừng vài tiếng lái xe thôi, anh sang đây diện di dân, lao động, làm việc, nhờ kết hôn với cô nên nhập tịch Hoa Kỳ .

Vượt qua những tiếng chưởi thề mở đầu và chấm câu cuả Roman, tôi nhìn thấy sự chân thật, đơn giản trong cuộc sống cuả anh. Mảnh vườn sau nhà anh trồng đủ các thứ hoa màu. Thuở mới dọn vào nhà, khi nhìn thấy tôi đang cuốc đất, dọn một khoảnh sân cỏ để trồng hoa, anh mang cuốc sang, hỏi bằng thứ tiếng Anh đơn giản

– Chồng Dolly đâu rồi? Đây là chuyện cuả đàn ông.

Tôi cố gắng giản dị hoá ngôn ngữ, nói với anh là nhà tôi đi làm, tôi nghỉ hôm nay, tôi thích làm vườn, nên ra ngoài cuốc đất trồng hoa. Nói thế, anh vẫn giằng lấy cuốc, bảo tôi tránh ra, anh chỉ nhanh tay cuốc một loáng là cả luống đât đã bung lên, thành hàng, ngay ngắn. Mảnh vườn hoa con con cuả tôi vốn dĩ đầy đất sét, tôi phải khệ nệ mang từng bao đất về xới, trộn cho có chút màu mỡ, nuôi những luống hoa tươi thắm màu sắc cho mùa hè, rực rỡ vào mùa thu. Roman làm cả xóm phải khổ sở vì anh. Sân cỏ nhà anh bao giờ cũng xanh mượt, hết tưới nước thì lại cắt cho bằng, Những luống hoa kèn nhiều màu, hống thắm, tím ngát, ai đi ngang qua cũng trầm trồ…Suốt mùa hè, ngày nào Roman về tới nhà, không ra cắt cỏ thì tưới hoa, vun quén khu vườn sau nhà…Khu vườn nhỏ nhoi nhưng trồng đầy các thức rau cải, gia vị, cà chua, , ớt ngọt , bắp …

 

– Cheer

Nâng ly rượu Vodka lên , Roman cheer với Tân, dăm lần như vậy là cả hai ngồi lờ đờ, ngất ngưỡng, miết rồi Tân phải chờ cho Roman vắng nhà mới dám ra ngoài cắt cỏ, vì thấy bóng Tân là anh chàng lại tay xách chai Smirnoff ra , hai cái ly đầy nước đá cục, hắn uống như đổ nước xuống cống. Ngày nào không có rượu vào, là chuyện lạ với hắn … Nhưng hắn lại rất ngoan đạo, sáng chuá nhật nào, cũng quần áo chỉnh tề, đi nhà thờ xem lễ. Vừa về nhà, thay bộ quần áo lễ bằng y phục thường ngày, chưa quá ngọ đã thấy trên tay cầm cái ly đá pha Vodka, màu trắng trong vắt. Muà Lễ Chuá Giáng Trần hay Phục Sinh, anh ta luôn cẩn trọng mang quà cáp sang, anh biếu chúng tôi món xúc xích đặc biệt cuả dân Ba Lan, do chính anh tự đi giết thịt, làm lấy, hong khói. Đổi lại chúng tôi phải ròng rã cuốn chả giò, chiên cơm mang sang biếu trả lễ.

 

Tiếng động cơ máy cày rì rào, hình dạng to thù lù trông như con quái vật, đang há cái mồm to, hàm phô lởm chởm, sừng sửng tiến vào, ngấu nghiến nhai nát tấm thảm cây xanh , hàng Dã quì vừa lấm tấm màu lá non, hoa dại phô màu vàng mơ rực rỡ, chưa kịp tắm nắng mai, đã tàn theo dấu chân hung bạọ. Cỏ cây sinh ra từ lòng đất, nay nghiêng ngã trở về …Dolly sửng sốt nhìn những luống đất, hình ảnh Roman và Joey, những giọt mồ hôi thấm vào lòng đất, hẳn vẫn còn giọt muối chưa tan. Mảnh vườn con con mà hai bố con hì hục cuốc từng luống, lên từng liếp, thả những hạt giống, vừa bén mầm xanh mơ. Chiếc maý cày lù đù tiến vào, cuốn theo dưới làn mắc xích, rể cây bật tung, thân non nhầu nát, Dolly nhắm mắt lại, nhớ thật rõ ràng hình ảnh chiếc xe tăng, nhìn như con quái vật, đã cán nát giấc mộng đầu đời. Cuộc chiến bao nhiêu năm qua, chỉ là cơn mộng dữ, theo đưổi đến bao giờ ? Luồng hơi lạnh chạy dài theo sống lưng, tựa vào gốc cây, nhìn thẳng, ánh mắt như dán vào con vật vô tri giác, đang tham lam ngốn ngấu, đang gieo rắc kinh hoàng.Tưỏng chừng không còn nhớ lại được, thời gian qua, từ lâu lắm rồi, nhưng nổi ám ảnh không chịu rời đi .

Roman hùng hổ bước ra từ trong khung cửa, chưa kịp thấy bóng người đã nghe một tràng chưởi thề, giòn giã như tiếng tiểu liên đang khạc đạn. Dolly nhíu mày , không khí bùng lên muì chiến tranh, như cơn hoả hoạn đang được chế thêm dầu, quạt thêm gió. Lao theo dấu chiếc máy cày, ném tung toé các cọc nhọn làm hàng rào chắn họ hàng nhà thỏ, Roman như điên cuồng nhìn mảnh vườn tan hoang, chiếc máy cày ngạo nghễ , anh ta buông ra từng tràng, đầy những tiếng chưởi ruả muôn màu vạn sắc, thứ ngôn ngữ một đời cần cù tụng tự điển, Dolly cũng không thể nào hình dung. Hàng ngày, theo mỗi chấm câu, mở đầu của anh đã đầy tiếng chưởi thề, trong cơn giận dữ, không còn từ ngữ dơ dạng tượng hình nào mà anh học được từ trong công xưởng, laị không mang ra thực hành .

– Allena, ngăn Roman lại, anh nóng quá, đánh người là mang hoạ vào thân

– Roman nổi cơn điên vì mụ chủ đất cày nát vườn rau, chặt bỏ hàng Lilac.

– Mụ cày xới , lấy đất để làm gì vậy ??

– Mụ có cần làm gì đâu, đất trống mà, chỉ vì mình trồng trọt, mụ không thích nên phá bỏ đó

– Tưởng là mụ nên mang ơn mình mới đúng chứ, đã dọn dẹp và trồng trọt cho vui mắt, làm sạch sẽ các thứ cỏ dại cho mụ rồi .

– Thế thì còn nói gì nữa, đáng kiếp mụ, hồi lão gia qua đời “ God rest his soul” mấy anh chị em tranh nhau miếng đất, cãi cọ lung tung , mụ ta ỷ có bồ là luật sư nên xử ép hai người kia, Mụ nghĩ là miếng đất nhiều giá trị, có thể chia ra thành lô bán nhiều tiền hơn nên mới giành lấy, giao các phần gia tài khác lại cho mấy người anh em, không ngờ là đất trủng, không thể xây cất được, cuối cùng thì nằm đó thôi. Đã vậy, vẫn phải chăm sóc, chi phí cho việc cắt cỏ, khai khẩn sạch sẽ, và nhất là phải nộp thuế đất đai hàng năm.

– Thật ra thì muốn xây cất trên khu đất đó, bà ấy phải mướn hoạ sư vẽ và thiết kế cẩn thận, không thì tiền mất tật mang.

– Mướn thì phải tốn nhiều tiền lắm, Chưa kề, Dolly nhớ hồi mấy căn nhà bên kia khi xây không ? Tốn bao nhiêu là móng mới xây được, dù sao, đất chổ ấy còn cao hơn, nếu mảnh nầy muốn xây nhà, còn cần nhiều hơn nữa đó

– Vâng, phần đất nầy chỉ có thể để cây xanh thôi, chứ nếu xẻ ra, ít nhất phải có người thật giỏi, tính toán cho thật chính xác chi li, không thì xây hỏng, chưa kề sẽ dễ bị ngập nước. Mà nầy Allena, lâu nay không thấy gã luật sư gởi giấy tờ gì hết ?

– Sau lần Mụ đòi đốn hàng Lilac, bị Roman điên tiết rượt chạy, hắn gởi thư hăm doạ, sẽ nộp đơn kiện ra toà, Roman mắng cho một trận tơi tả, không thấy gã trở lại. Chắc lại bỏ nhau rồi, cái bọn hút máu đó, giống như đỉa ấy mà, khi hút đầy máu cũng đã chán chường rồi, bám theo làm gì nữa ?

– Chuyện cũng lạ đó, chứ đỉa mà laị tha máu hay sao ??

– Biết đâu đã tìm được mồi ngon hơn ? Bọn già nhân ngãi non vợ chồng, không thích nhau thì xách gói ra đi .

 

 

– Cheer,

– Cheer

Vốn Anh Ngữ cuả Roman ngoài những câu chưởi thề giòn tan, thật ít ỏi, nhưng cũng đủ giải thích với chúng tôi, tấm lòng thương nhớ quê nhà. Tiếng mất tiếng còn, từng manh chắp vá, từ những cánh đồng bát ngát cuả quê nhà, Roman đã lớn lên, Ba Lan vào những ngày Xã Hội chủ nghĩa, cũng giống như các nước nghèo nàn của Âu Châu, hắn tha phương cầu thực, lao động vinh thân. Roman sang đây, theo gót một người anh họ, lao động cực lực, công việc không đòi hỏi chuyên môn, hay vốn liếng Anh ngữ. Vừa học thêm nghề nghiệp, vừa lao đầu vào công việc, dùng sức khỏe, mồ hôi, đổi miếng ăn và cuộc sống hàng ngày. Cái hào quang rực rỡ cuả thiên đường Cộng sản không giữ ấm được mùa đông băng giá, không làm đầy cái bao tử lép xẹp vì thiếu ăn.Trong lúc, thực phẩm thừa mưá phải đổ đi, nơi mà họ goị là điạ ngục tư bản bóc lột nầy. Những muà Giáng Sinh, tấm thiệp ghi các món quà dài như lá sớ Táo quân, dù đông hay tây, dù màu da trắng hay vàng, trong tận cùng các ngăn tim máu đỏ, vẫn là hình bóng quê nhà, vẫn là người Mẹ già hắt hiu trông ngóng đứa con xa.

Mùa hè năm trước đây, Roman sang tâm sự với Tân, anh nhớ quê nhà da diết, muốn về thăm Mẹ, lại ngại chuyện phải qua bao nhiêu cửa khẩu khó khăn. Sau lần khủng bố, vào ra các phi trường như qua bao nhiêu vòng thành kiên cố. Thủ tục thật lôi thôi, hỏi han bất nhất .Vốn tiếng Anh quờ quạng, anh rất ngại ngần, nếu mang cả nhà, Allena và các con cùng về thì tốn quá nhiều tiền …chi phí nầy anh không thể gánh nổi, cuối cùng thì Tân khuyên anh nên đi một mình, vì nghĩ đến Mẹ già mong thấy lại đứa con đi xa. Tân tình nguyện đưa anh ra phi trường, sẽ lo dùm anh các thủ tục xuất cũng như nhập cảnh, anh cám ơn rối rít, sau dăm ba lần “ Cheer “ anh ngất ngưỡng chân đàng nam lôi chân đàng bắc, lê thê bước về nhà .

Ngày hành trang lên đường, Roman lễ mễ, lăng xăng xếp các thức quà cáp, nhìn đống hành lý, nghĩ đến những chuyến về thăm quê nhà cuả chúng tôi, cho dù Âu hay Á, cũng giống như nhau, cũng gói ghém bao nhiêu thứ để mang về. Anh cảm ơn rối rít khi Tân đưa anh vào phi trường, giúp anh lo xong các thủ tục. Chia tay anh, Allena và hai đứa bé theo chúng tôi ra về, cô liên miên kể cho chúng tôi nghe về tình hình sinh sống bên ấy, lần cô sang thăm, lúc chưa sinh các con, những khó khăn vật chất cuả các nước xã hôi chủ nghiã, cũng khuôn phép, luật lệ lề mề như nhau. Cô sinh và lớn lên bên xứ tự do, cho nên những thiếu thốn chỉ là hình dung trong báo chí. Ngược lại, Roman sống trong khu nông trại, cả gia đình bám vào năm mươi mẫu đất trồng trọt. Anh khoe với Tân những luống hoa màu, ngũ cốc, khi ngọn bắp trổ cờ, luống rau xanh ngắt, trong đôi mắt anh, niềm kiêu hảnh long lanh rạng ngời, ánh mắt chan chứa nổi khát khao, niềm vui thoát ra theo từng câu nói vụng về, nhưng tình thương đất Mẹ bao la, không phân biệt màu da chủng tộc.

 

Hàng cây Lilac, hình ảnh cuả Mẹ anh, qua từng mẫu chuyện, dù vụng về, tiếng mất tiếng còn, nhưng chúng tôi hiểu cơn giận dữ cuả anh, Khi nhìn thấy con quái vật đang chực chờ ngấu nghiến. Hình ảnh căn nhà ở vùng quê, Bố anh đổ bao nhiêu mồ hôi ra xây cất, những luống hoa đủ màu sắc, mỗi năm, ngày Mother Day, anh và các anh chị em trồng cho Mẹ.Hàng Lilac sau nhà, nụ đầy cành, tím long lanh, hương ngát từng muà xuân, anh vẫn trân trọng cắt mỗi ngày, khi nghe tiếng gỏ vào cửa kính , nhìn thấy anh ngoài sân nắng, chùm hoa trên tay, anh lại mang sang tặng tôi, làm sao anh không nổi cơn , điên tiết khi thấy chúng sắp sửa tận diệt?

Nắng đầu ngày, nắng thật trong, những nụ hoa tím ngát trên tay tôi hương thơm nhẹ nhàng, hương thơm gói trọn niềm nhớ quê hương .

 

Vũ Thị Thiên Thư

 

Lilac : Hoa Tử đinh hương

Dendelion : Hoa màu vàng lá dài răng cưa nhọn như hàm sư tử

Vodka : Rượu cuả Liên Sô , trắng như rượu nếp cuả Việt Nam

Smirnoff : Tên riêng cuả mốt loại rượu Vodka

“ God rest his soul “ : Cấu cho linh hồn ông ta an nghĩ

Mother Day : Ngày Lễ Mẹ

 

Xin Mời theo link :

Truyện : Vũ Thị Thiên Thư Diễn đọc Hồng Vân VOA

http://www.voanews.com/vietnamese/archive/2008-11/2008-11-25-voa40.cfm