Trên Đỉnh

P1130560

Vượt qua Kaiser  Pass, điểm cuối cùng khi GPS không còn chỉ dẫn, Cell phôn không còn sóng…

Nước lạnh từ trên đỉnh thác cao do tuyết tan, mạch nước nóng thiên nhiên từ trong lòng đất phún ra,  buổi sáng sương mù chưa tan, Đỉnh Abbot cao 13,715 bộ về phương đông.

P1130572

Vượt suối

P1130608

Đầm nước nóng

Từ Thung Lũng Lá rơi

Vũ Thị Thiên Thư

Di tích nghìn năm Quốc Tử Giám

Bia Tien Si

Viet Tide

Số Tháng 4 ngày 18

Di Tích Nghìn Năm
Quốc Tử Giám Văn Miếu

Mỗi dân tôc đều tự hào về nền văn hóa của riêng mình, Việt Nam cũng không ngoài thông lệ. Văn Miếu Quốc Tử Giàm là biểu tượng ngàn năm còn đứng giữa Thủ đô Hà Nội hay Cố Đô Thăng Long đã chứng minh điều nầy.
Văn Miếu
Văn Miếu được dựng nên bởi Vua Lý Thánh Tông vào năm 1070, thờ Đức Khổng Tử là người sáng lập ra học thuyết Nho Giáo [ Khổng Giáo ] có ảnh hưởng sâu đậm trong các Vương triều Trung Hoa lẫn Việt Nam.
Nho học đã hình thành ở Trung Hoa từ thế kỷ thứ XI trước Công Nguyên do Chu Công soạn ra, Khổng Tử và các môn đồ sưu tập và hoàn chỉnh Nho học với các bộ Tứ thư gồm có: Đại Học, Trung Dung, Luận ngữ, Mạnh Tử và Ngũ kinh gồm có: Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu.
Khổng Tử [ 551-479 trước Công Nguyên] Tên Trọng Ni là người nước Lỗ nay thuộc tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông là nhà tư tưởng, giáo dục, chính trị. Sinh thời chu du khắp các nước, dạy học trò truyền bá tư tưởng học thuật và làm quan phục vụ cho các tiểu quốc [ Vào thời nầy Trung Hoa chia ra nhiều nước tranh chấp đất đai lẫn nhau nên còn gọi là Thời Xuân Thu Chiến Quốc.]
Năm 1010 Vua Lý Thái Tổ sau khi lên ngôi dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, theo truyền thuyết khi chuẩn bị dời đô nhà Vua nằm mộng thấy Rồng bay lên nên dùng Thăng Long làm tên đặt cho kinh đô mới, hiện nay thuộc thủ đô Hà Nội.
Để xây dựng quốc gia, lập nền tảng cho an dân trị nước, nhà Lý chọn Nho Giáo làm căn bản,vào năm 1075 mở khoa thi tuyển chọn nhân tài có thể nói đây là khoa thi đầu tiên được ghi lại trong lịch sử. Tuy nhiên không thể phủ nhận ảnh hưởng sâu đậm của Phật Giáo do Lý Thái Tổ từ thuở nhỏ đã sống trong chùa, rất tôn sùng Phật Giáo, cho nên vào thời Lý có rất nhiều các vị cao tăng là cố vấn cũng như rất nhiều chùa chiền được xây dựng khắp nơi trong đó có Chùa Trần Quốc, Chùa Một Cột [ còn gọi là Chùa Mật, Diên Hựu Tự hay Liên Hoa Đài ], chùa Láng, chùa Hòe Nhai [ Hồng Phúc Tự ]…
Quốc Tử Giám
Có thể nói đây là ngôi trường đại học đầu tiên được thành lập vào năm 1076 vào Triều Lý. Đứng đầu có Tế tửu và Tư Nghiệp, phụ trách giảng dạy còn có các Giáo thụ, Trực giảng, Trợ giáo, Bác sĩ. Giám sinh hầu hết là những người đã đỗ cuộc thi Hương, qua một cuộc kiểm tra ở bộ Lễ và được vào trường theo học cùng các Hoàng tôn, Công tử để tếp tục các cuộc thi Hội và thi Đình.
Quốc Tử Giám vào thời Lý chưa được phát triển mạnh, được theo học chỉ có một số các Hoàng tôn, Quí tộc cùng một ít các nhân tài tuyển chọn sau kỳ thi đầu tiên vào năm 1075. Vương Triều Lý vẫn còn chịu ảnh hưởng sâu đậm của Phật Giáo và các cao tăng,
Đến năm 1253 đời Trần Thái Tông vua cho lập Quốc Học Viện [ Quốc Tử Giám cũ] Nho giáo đã có ảnh hưởng mạnh thì mới thật sự mở rộng cho các nhân tài sĩ phu trong nước cùng theo học. Bấy giờ thì chế độ thi cử, học vị được qui định và các chức quan được bổ dụng vào tận các lộ, phủ, châu
Giám sinh được chia làm ba cấp : Thượng xá sinh, Trung xá sinh và Hạ xá sinh để được cấp học bổng theo học. Thời gian học tập tối thiểu ba năm, tối đa chin năm. Học tập chú trọng vào việc đào tạo nhân tài ra làm quan, cai trị gìn giữ xây dựng nền tảng quốc gia, cho nên giám sinh được dạy các thể : Kinh nghĩa, Chế, Chiếu, Biểu, Thơ , Phú, Văn Sách. Tài liệu học tập được trích ra từ các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh, cùng các tuyển tập thơ, phú, cổ văn.
Vào Thời nầy đã có những vị nhân tài như Sử gia Lê Văn Hưu, Ngự sử Đoàn Nhữ Hài, Lưỡng Quốc Trạng Nguyên Mạc Đỉnh Chi, Tư Ngiệp Chu Văn An…Khi vua Trần Nghệ Tông đưa các vị Chu Văn An, Trương Hán Siêu và Đỗ Tử Bình vào thờ ở Văn Miếu đã chừng tỏ sự hưng thịnh của Nho Giáo .
Sau Khi vua Lê Thái Tổ đánh đuổi giặc Minh, giành lại đất nước thì chú tâm đến việc học hành, tổ chức trường học từ kinh đô cho đến các phủ, Quốc Tử Giám lại được chọn làm nơi học tập cho các thí sinh đỗ cao nhất nhì trong các cuộc thi.Hương, thi Hội. So với Triều Lý , Trần thì đã có một nền giáo dục mở rông đón nhân tài theo học.
1484 Vua Lê Thánh Tôn hạ chiếu lập bia đá dựng ở Văn Miếu để khắc tên các vị Tiến sĩ thi đỗ từ khoa thi đầu tiên của nhà Lê từ năm 1442 đến khoa thi năm 1779, đây là đơt dựng bia đầu tiên gồm 10 tấm bia đá.
Hiện nay thì còn lại 82 tấm bia đá khắc họ tên, quê quán của 1307 vị tiến sĩ được dựng hai phía đông tây bên cạnh giếng Thiên Quang, các bia không xếp theo thứ tự thời gian, triều đại, hình thức các bia cũng không giống nhau. Không biết vì sau mỗi lần trùng tu có sự thay đổi, cũng như sự tàn phá của thời gian. Lần trùng tu cuối cùng vào năm 1994, khi các mái che được sửa sang lại cho đến bây giờ
Kiến Trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám
Văn Miếu – Quốc Tử Giám nằm ở phía nam thành Thăng Long, xưa thuộc thôn Minh Giám, tỗng Hữu Nghiêm, Huyện Thọ Xương. Hiện nay thuộc thành phố Hà Nội.
Diện tích toàn khu vực là 54.331 mét vuông gồm có : Hồ Văn, Khu Văn Miếu- Quốc Tử Giám.
Hồ Văn diện tích 12,297 mét vuông, giũa hồ có gò Kim Châu, trên gò dựng Phán Thủy Đường là nơi bình văn của các văn nhân của kinh thành, hiện nay chỉ còn lại tấm bia dựng từ năm 1865 thời vua Tự Đức.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám nằm trên khu đất dài 300 mét, rộng phía bắc là 75 mét, phía nam 61 mét. Tiền án dựng Tứ Trụ [ Nghi Môn ] hai bên là hai bia Hạ Mã. Khu Nội tự ngăn cách bằng tường gạch chia làm năm khu vực nối tiếp nhau: Cổng Văn Miếu, Cổng Đại Trung, Khuê Văn Các,cổng Đại Thành, khu điện thờ, cổng Thái Học và cuối cùng là nhà Thái Học.
Cổng Văn Miếu tam quan xây hai tầng, chính giữa cao với tấm biển Văn Miếu Môn, xưa chỉ mở cho vua quan vào thăm hoặc tế lễ, giám sinh và thứ dân dung cổng phụ hai bên. Bên trong cổng là khu Nhập đạo hai bên có cây xanh , hồ nước, đường lót gạch chính giữa dẫn vào khu Đai Trung.
Cổng Đại Trung gồm ba gian, mái lợp ngói mũi hài, hai bên cổng Đại Trung là hai cổng nhỏ là Thành Đức và Đạt Tài với nghĩa là giáo dục cho con người có đầy đủ đức lẫn tài.
Khuê Văn Các là một lầu vuông 8 mái được xây vào năm 1805 thời vua Gia Long Triều Nguyễn. Khuê là tên một ngôi sao trong chòm sao 28 ngôi Bạch Hổ phương tây, có 16 sao sắp xếp như chữ Văn . Có thể do đó mà Khuê biến thành người đứng đầu của quan Văn. Hai bên gác Khuê Văn có hai cửa nhò là Bí Văn [ trau chuốc sáng sủa] Súc Văn [ hàm ý súc tích ]
Thiên Quang Tỉnh [ Giếng ánh sáng của trời ] hình vuông có lan can gạch chunh quanh. Theo quan niệm của người xưa, giếng hình vuông tượng trưng cho đất, cửa sổ tròn của gác Khuê Văn tượng trưng cho bầu trời, có ý nghĩ nơi đây tập trung tinh hoa của trời đất.
Đối diện hai bên giếng Thiên Quang là hai dãy bia Tiến Sĩ, đặt trong các nhà trống vách để che mưa nắng, hiện nay còn 82 tấm bia và tên tuổi quê quán của 1304 vị Tiến sĩ trong các kỳ thi từ 1442 cho đến 1779.
Qua cửa Đại Thành là vào khu vực chính thờ Khổng Tử và các vị Thánh Nhân. Hai bên cửa Đại Thành có 2 cửa ngách phía Đông là Kim Thanh và phía Tây là Ngọc Chấn là lối đi vào Quốc Tử Giám, đi theo hai dãy Đông vu và Tây vu để vào sân Đại Bái, điện Đại Thành.
Đại Bái Đường xây chin gian với 40 cột trụ, mái ngói mũi hài, trên đắp hai con rồng chầu Nhật Nguyệt, có cửa sổ gỗ chấn song, cùng các bức phù điêu gỗ khắc chạm hình rồng mây [ thời Lê ]
Điện Đại Thành có chin gian xây tường kín ba mặt, phía trước cửa gỗ đóng kín bảy gian giữa, gian hai bên có cửa sổ chấn song còn giữ ảnh hưởng kiến trúc thời Lê, trên đỉnh có đôi rồng chầu nhật nguyệt gắn mảnh sứ men màu theo ảnh hưởng triều Nguyễn, bên trong điện sơn son thếp vàng rực rỡ. Điện Đại Thành thờ Khổng Tử và các vị Nhan Hồi, Tử Tư, Tăng Tử, Mạnh Tử.
Hai dãy Đông vu và Tây vu cũng theo hình thức chín gian, bên trong khi xưa thờ Thất Thập Nhị Hiền, là học trò của Khổng Tử. Kiến trúc cũ bị phá hủy vào năm 1946, kiến trúc hiện nay được xây lại từ năm 1954.
Sau Điện Đại Thành vào cổng Thái Học và khu Quốc Tử Giám.
Quốc Tử Giám khi xưa có giảng đường, thư viện, ký túc xá cho học sinh, có kho chứa văn phòng phẩm, các bảng gỗ khắc chữ để in sách . Sau khi Triều Nguyễn xây Quốc Tử Giám ở Huế thì tất cả khu nầy biến thành học phủ của phủ Hoài Đức [ về sau thuộc Hà Nội ], và xây đền Khải Thánh để thờ song thân của Khổng Tử. Tất cả bị đốt phá vào năm 1946 chỉ còn lại con đường gạch chính giữa từ cổng Thái Học cho đến nền điện Khải Thánh .
Khu Thái Học được xây lại từ 1999 gồm có Tiền đường, Hậu đường, Tả vu, Hữu vu, lầu chuông, gác trống mô phỏng theo kiến trúc xưa trên nền cũ của Quốc Tử Giám.
Tiền đường so với Bái đường của Văn miếu thì cột cái to và cao hơn, hiện dùng làm nơi tổ chức các cuộc hội thảo, triển lãm tác phẩm văn học nghệ thuật.
Hậu đường là kiến trúc có 2 tầng.
Tầng thứ nhất là nơi thờ Tư Nghiệp Chu Văn An và các tài liệu về giáo dục cũng như lịch sử của Văn Miếu – Quốc Tử Giám
Tầng thứ hai thờ ba vị Vua đã có công xây dựng Văn Miếu- Quốc Tử Giám :
– Lý Thánh Tông [ 1023-1072 ] là vị Vua đã lập Văn Miếu vào năm 1070
– Lý Nhân Tông [ 1066 – 1128 ] Tên Úy là Càn Đức từng theo học ở Văn Miếu, mở khoa thi đầu tiên 1075 để chọn nhân tài. Lập Quốc Tử Giám năm 1076.
– Lê Thánh Tông [ 1442 -1497 ] Ban hành Bộ Luật Hồng Đức, định lệ thi cử, trùng tu Văn Miếu và lập bia Tiến sĩ. Vua đã tổ chức 12 khoa thi , lấy 502 vị Tiến sĩ, trong dó có nhiều nhân tài như Lương Thế Vinh, Phạm Đôn Lễ, Vũ Tuấn Chiêu…Ngoài ra còn sáng lập Hội Tao Đàn
Hai nhà Hữu vu và Tả vu là công sở làm việc, có một thư viện nhỏ để chứa tài liệu tham khảo và tra cứu.
Gác chuông có chuông đồng cao 2,34 mét. Được đúc từ năm 2003
Lầu trống chứa một trống làm từ thân cây mít lấy từ rừng Đác Lắc , mặt trống bịt bằng da trâu.
Đứng dưới tàng cây đa đã hơn trăm tuổi đời nhìn mái ngói cong, cột gỗ lim vững chắc, sân gạch bát tràng thênh thang, hình dung lại nơi đây đã có bao nhiêu học trò miệt mài kinh sử, ông cha chúng ta đã để lại những áng văn chương tuyệt vời cũng như những câu thơ hùng khí sắc bén hơn gươm giáo:
“ Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư
Tuyện nhiên định phận tại Thiên thư “
Là con cháu của dòng Âu Lạc, với Hào khí Diên Hồng cùng tinh thần bất khuất, quyết tâm chống lại xâm lược để gìn giữ non sông gấm vóc cho con cháu mai nầy.

Vũ Thị Thiên Thư

 

Động Hoa Lư

Cổng Vào Đền

 

VietTide Số Ra Ngày 7 Tháng 3

Động Hoa Lư

Từ bài học Lịch sử Đinh Bộ Lĩnh “ Cờ lau tập trận “, thuở bé thơ chơi đùa trong khuôn viên trường học, mỗi nhóm phân chia thành những toán quân, bày thế trận tranh bá xưng hùng. Những tưởng đó chỉ là những địa danh mơ hồ trong sách vở. Không ngờ lại có ngày đứng trước cánh cổng Lịch sử mở ra trước mắt, nhìn lại dấu vết của một thời kiêu hùng xưa cũ.

Chúng tôi khởi hành từ Phố cổ Hà Nội, qua Phủ lý về Ninh Bình, con đường gợi lại trong ký ức những liên tỉnh lộ từ thời Nam Kỳ Lục Tỉnh, khi theo Ba tôi về thăm Sài Gòn. Ra khỏi ngoại thành, từng mảnh ruộng rẫy chạy dài hai bên đường, lác đác bóng nông dân dọc theo bờ ven chăm chút. Nhìn lại thửa ruộng sào, liếp rẫy, vườn rau của từng nhà trong xóm thôn, hình ảnh lâu rồi chỉ bàng bạc trong ký ức của lần đầu về thăm quê cha, cũng như những lũy tre làng cùng ao bèo xanh biếc, con đường đất dẫn vào làng mạc trong các trang sách thuở học văn của Tự Lực Văn Đoàn, không biết những hình ảnh nầy sẽ tồn tại bao lâu nữa, với bước tiến bây giờ, nhìn các công trình xây cất từ phi trường Nội Bài về Hà Nội đã thay đổi rất nhiều, dăm ba năm nữa có muốn đi tìm thì cũng không biết tìm nơi đâu.

Qua những đoạn đang trùng tu, khoảng đường ngắn đi mất hơn một tiếng đến Phủ Lý. Ngừng chân lại quán bên đường dùng bửa điểm tâm, món bánh cuốn nóng đặc biệt sản xuất tại địa phương. Nhớ lại trong các câu chuyện hai bác thường kể về miền quê nhà xa cách cũ, những món ăn thường nhật cũng như vào những ngày lễ Tết trong năm, nhìn xuống dĩa bánh cuốn xếp ngay ngắn những chiếc bánh mỏng như lụa mềm, giọt cà cuống nhỏ vào chén nước mắm trong thơm ngát. Chén canh bánh đa nấu cá rô đồng, lơ thơ vài sợi cải xanh cắt nhỏ. Không thể hình dung hương vị trong ký ức của hai bác để có thể so sánh với những gì đang bày ra trước mắt của ngày nầy, lẫn mất vào không gian chút dư hương của ngày tháng cũ .

Đã có nhiều người tra cứu sách Sử, từ các bản lâu đời “ Đại nam Nhất Thống Chí “, “ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư “ bàn định về tên gọi, ghi chú các địa danh, nhưng có đọc bao nhiêu trang sách, có nghe bao nhiêu chuyện kể lại, cũng không thể  hình dung được niềm cảm khái trào dâng khi nhìn rặng Mã yên xanh lam trước mắt,  dòng nước trong êm đềm chảy lặng lẽ ngàn năm của con sông Hoàng Long. Chúng tôi đang đối diện với non sông nhung gấm của cha ông muôn đời mà dấu vết vẫn còn lưu lại.

Kinh Đô Hoa Lư

Địa thế Kinh Đô Hoa Lư rất đặc biệt, bao bọc bởi các rặng núi chunh quanh, nhưng lại rất tiện lợi cho thủy lộ lưu thông. Sau khi dẹp loạn Thập nhị Sứ Quân, năm 968  Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh đã thống nhất đất nước và lên ngôi hiệu Đinh Tiên Hoàng  quốc hiệu Đại Cồ Việt và lập Kinh đô ở Đông Hoa Lư .[ Xã Trường yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh bình ngày nay ]

Chỉ bằng mắt nhìn khách quan, chúng tôi cũng nhận thấy lợi thế phòng thủ rất tốt của Hoa Lư. Bao bọc bởi các ngọn núi đá vôi chunh quanh, với nhiều hang động. có thế quan sát cả hai mặt trong ngoài vòng thành tự nhiên nầy. Với tài năng thao lược, phát huy từ những ngày còn bé, Đinh Bộ Lĩnh đã nhìn thấu và lợi dụng thiên nhiên để xây dựng quốc gia, sau đó là  Triều Lê, Triều Lý đã tiếp nối công trình xây dựng đất nước cực thịnh về sau.

Theo các di tích khai quật được, ngoài các vòng thành thiên nhiên, Kinh đô Hoa Lư còn có các vòng thành xây bao bọc bên ngoài và bên trong.Tống số có 13 đoạn thành , 11 đoạn chạy qua các vùng sình lầy, 2 đoạn trên quèn* đá cao ráo. Tổng cộng chiều dài của các tường thành gần 2 cây số, đắp khá cao, từ 6m đến 10m, móng sâu 2m, chân tường rộng khoảng từ 15m đến 17m, mặt trên tường thành rộng từ 3m đến 4m. Tường  thành có đoạn xây bằng đá chen gạch, có đoạn phía trong xây bằng gạch, ngoài đắp đất, có đoạn đắp lẫn đá, chân thành bó gạch, móng thành lát bằng gỗ sát vào nhau. Hiện nay thì các tường thành không còn nguyên vẹn, chì còn dấu vết có thể nhận ra.

Đã tìm ra tường thành thì phải có cửa thành. Cửa chính có thể nằm hướng Đông,từ núi Thanh Lâu sang núi Cột cờ, đoạn tường thành  Đông Bắc có them một cửa phụ, và cửa sau nằm về hướng Tây. Thủy lộ gồm cửa Bắc ở đoạn sông Sào Khê gần núi Chẽ, cửa Nam là hang Luồn [ Xuyên thủy động] . Ngoài ra còn một cửa thành chung cho cả hai đường thủylẫn đường bộ là cửa Thành Dền. Đại Nam Nhất Thống Chí có ghi là cửa thành Hoa Lư có cửa xây bằng đá rất kiên cố.

Chùa chiền

Vào thời  Nhà Đinh Phật Giáo đã phát triển mạnh qua các di tích Chùa chiền ở Kinh đô Hoa Lư. Chùa Tháp Bảo Thiên nằm phía bắc gần sông Hoàng Long. Chùa Bà Ngô cũng nằm gần sông Hoàng Long về hướng Đông bắc. Chùa Am nằm trong hang núi thuộc thôn Thông Bái. Chùa Đà nằm trong hang núi Đìa. Chùa Dền còn gọi là Hà Khánh Tự . Chùa Thủ còn có tên là Diên Ninh Tự nằm gần núi Thủ. Trong số các chùa nầy thì hiên nay có chùa Bà Ngô  đã được xây dựng lại, còn giữ được tấm bia đá bốn mặt cao hơn 1m bề ngang 0.5m khắc tên những người có công đức xây chùa bằng Hán tự.

Sông Núi

Kinh đô Hoa Lư có con sông Sào Khê bắt nguồn từ sông Hoàng Long ở phía bắc chày về hướng nam xuyên qua ngoại thành rồi đổ vào sông Vạc ở cầu Yên, gặp sông Vân Sàng tão thành ngã ba Vũ lâm là trục giao thông thủy lộ rất quan trọng.

Núi Cột cờ nằm hướng Đông Bắc của Kinh đô, là nơi Đinh Tiên Hoàng cắm cờ hiệu Quốc gia. Núi Mã Yên nằm trước đền thờ của Vua Đinh Tiên Hoàng, hình dạng núi giống như chiếc yên ngựa hai nên có tên nầy.Núi Đại Vân là nơi dựng điện Bách Bảo Thiên Tuế. Ghềnh Tháp là mõm núi nhô ra sát sông Sào Khê, tương truyền là nơi Nhà Vua dùng để duyệt thủy binh. Núi Hang luồn có hang cùng tên [ Xuyên Thủy Đông]  rộng hơn 30m dài khoảng 143m có sông Sào Khê chảy xuyên qua, đây chính là thủy lộ xuôi nam của kinh đô Hoa Lư. Núi Am Tiên cũng có hang động ,tương truyền đó là ngục thất giam giữ trừng trị tội nhân. Núi chùa Am và núi chùa Đìa là hai núi nằm hai hướng Bắc Nam có hang động biến thành nơi thờ cúng. Ngoài ra còn có Núi Hang Quàn  dùng để làm tang ma cho Vua quan trong triều đình trước khi đi chôn cất.

Biển

Vào thời nhà Đinh, phương tiện chính vẫn là thuyền bè, do vị trí của Kinh Đô Hoa Lư . Cảng Phúc Thành nằm sát cửa sông giao thông ra biển. Hầu hết các giao thương với nhà Tống là do đường biển về Kinh Đô

Năm 987 Vua Lê Đại Hành sai Thiền Sư  Đỗ Pháp Thuận cải trang thành người lái đò đón sứ Tống Lý Giác , họ Lý thấy hai con ngỗng trắng đang bơi trên sông nên ứng khẩu

“ Nga nga lưỡng nga nga

Ngưỡng diện hướng thiên nha”

Không ngờ người chèo đò cũng ứng đáp ngay

“ Bạch mao phô lục thủy

Hồng trạo hải thanh ba”

Lý Giác nghe xong tâm thần kính phục, ở nước Nam chỉ một người dân quê đã giỏi chữ nghỉa thế nầy thì quả là không thể xem thường.

Hiện nay thì dấu vết của Kinh đô Hoa Lư ngoài các tường thành thiên nhiên là các rặng núi bao bọc chunh quanh, các dãy núi vẫn còn nguyên tên gọi nằm trong xã Trường yên. Khách đến thăm sẽ thấy hai ngôi đền cổ kính trang nghiêm, đó là Đến Vua Đinh Tiên Hoàng và Vua Lê Đại Hành.

Đền Vua Đinh Tiên Hoàng

Đền Vua Đinh Tiên Hoàng nằm ở làng Trường Yên Thượng, nên còn gọi là Đền Thượng, được xây dựng sau khi Vua Lý Thái Tổ thiên đô về Thăng Long. Ngôi đền trông ra Núi Hổ, núi Chẽ  nhìn về hướng  bắc, và nằm trên nền cung điện chính của Kinh Đô Hoa Lư . Hai ngọn núi nầy như hai con hổ phục chầu về núi Cột Cở.

Đầu thế kỷ XVII thì Lễ Quận Công Bùi Thời Trung  người làng Chi Phong tổng Trường Yên đã trùng tu lại cả hai ngôi đền, nhưng lại chuyển  hai ngôi đền trông về hướng Đông.

Đến nhà Nguyễn, 1898 thì Ông Bá Kếnh [ Dương Đức Vĩnh] người làng Trường Yên Thượng đã sửa lại  cửa đá, đưa đá cổ bồng vào dưới chân cột gỗ lim nâng cao ngôi đền , vì thế đền Vua Đinh  cao hơn Đền vua Lê 0.6m và có thêm các tảng đá chạm trổ rất tinh xảo.

Đền Vua Lê Đại Hành

Đền Vua lê Đại Hành nằm ở làng Trường Yên Hạ, nên còn gọi là Đền Hạ, cách đền vua Đinh về hướng Bắc khoảng 300m, trước mặt đền có núi Đèn làm án. Kiến trúc gần giống nhau, nhưng đi vào đền theo cổng phía đông và không có ngưỡng cửa đá cũng như tảng đá cổ bồng nâng cao lên, vì vậy kiến trúc của đền Vua Lê còn giữ lại nét nguyên thủy trùng tu từ thởi kỳ Hậu lê.

Cả hai ngôi đền thờ đều có ba tòa: Bái Đường, Thiêu hương và Chính cung. Mỗi tòa đều có kiến trúc đặc thù, cột gỗ lim tròn to và cao đặt trên các tán đá vuông, cổ bồng và được sơn son thếp vàng rực rỡ.

Hai ngôi đền thờ là biểu tượng của sự tôn kính công lao của hai vị Vua đã góp phần vào việc xây dựng quốc gia, cũng như là di tích lịch sử, văn hóa, của dân tôc.

 

 

Vũ Thị Thiên Thư

 

 

Nối giấc mơ xưa

IMG_4075-001

 

Nối giấc mơ xưa

   1 Người láng giềng

   Thoạt nhìn hắn chậm chạp bước đi, trông như cụ già vừa qua cơn ốm nặng, khuôn mặt in vết thời gian không ưu đãi, tôi đoán hắn là dân Đông Âu. Trên khuôn mặt rất khó có mỹ cảm đó, ánh mắt lạnh lùng nhìn chăm chăm vào người đối diện, ngược lại vợ hắn rất  lịch sự chào khi thấy tôi đang lui cui dọn dẹp trước sân. Bà nói tiếng Anh nặng giọng, đúng là dân Đông Âu không sai trái được. Bà ăn mặc chải chuốt, trang điểm cẩn thận, câu chuyện thời tiết bâng quơ, giới thiệu láng giềng. Tôi cũng mới dọn về thành phố nhỏ nầy, vẫn còn sắp xếp vật dụng trong nhà, thu vén chunh quanh cho nên chưa có dịp làm quen cùng hàng xóm láng giềng.

   Hắn phàn nàn sân cỏ trước nhà chúng tôi cằn khô trông xấu xí quá. Căn nhà từ lâu không có người cư ngụ cho đến khi chúng tôi dọn vào, sân trước vườn sau cỏ vàng cháy lốm đốm. Quen mắt nhìn thảm cỏ xanh mượt của Ngũ Đại Hồ mùa xuân, nhà tôi rất bực mình, nhưng giống cỏ nầy thích nghi với khí hậu bán sa mạc nên không mịn màng xanh mượt như giống Blue Grass trong sân nhà ở Góc Rừng. Tôi thấy anh hàng ngày nhìn chúng bực bội như mũi gai nhọn châm chích, nhưng ít nhất cũng phải có thời gian  an cư rồi mới có thể  tìm phương cách để phục hồi màu xanh mượt mà cho chúng nó.

    Đầu thu, khi những chùm nho chín đen trên hàng rào, nhà tôi cẩn thận cắt xuống mang qua trả cho họ, vì dây nho trèo qua hàng rào thòng xuống bên nhà chúng tôi. Hôm sau lại thấy bà ấy mang biếu chúng tôi mấy quả dưa chuột trồng trong vườn nhà. Chút tình thân thiện chớm nở qua câu chuyện thăm hỏi, chừng ấy thôi. Vắng một lúc lâu, không thấy ông ta vãng lai, chúng tôi cũng tất bật với công việc, thiên di, an cư và chuẩn bị ngày cưới xin cho con trai vào đầu mùa xuân tới.

   Nhà tôi vẫn chưa quen với sự khác biệt của thời tiết trong Thung Lũng Lá Rơi, tháng giêng bên Góc Rừng tuyết trắng mênh mông, ngược lại bên nầy cỏ non trong sân nhà lún phún, màu xanh lá mịn như nhung, tháng hai chồi non đâm lộc, nhìn sân cỏ đã bén đất thay màu, hoa cỏ nở nhanh không cắt kịp, nhìn sang nhà láng giềng,  sân cỏ rậm rạp, cỏ dại tràn lan, hàng hoa hồng rực rỡ trước đây tiêu điều xơ xác. Nhà tôi thắc mắc, không biết ông ấy vắng nhà bao lâu mà không có người chăm sóc nhà cửa. Mãi  lâu mới thấy dáng ông ta chậm rãi ra trước sân,  nhà tôi chào hỏi thăm, ông bảo là vừa qua một cuộc giải phẩu, chưa hồi phục nên không thể cắt cỏ làm vườn. Cuối tuần, khi anh cắt cỏ trước nhà, anh cắt và dọn luôn bên sân của ông ta. Lúc chúng tôi còn ở Góc Rừng, mỗi lần đi chơi xa vắng nhà, không Roman thì Sam, chúng tôi không phải lo lắng tìm người chăm sóc, ngược lại, chúng tôi sẽ làm y như vậy cho cả hai bên khi họ đi nghỉ hè. Bố tôi lúc sinh tiền vẫn nhắc  “ Bán anh em xa, mua láng giềng gần “.

   Mấy hôm sau, lại thấy ông bấm chuông nhà, tay xách một túi giấy dầu [loại chợ thực phẩm dùng để gói ghém cho khách hàng] chúng tôi mời ông vào nhà, lần đầu tiên thấy ông vui vẽ theo vào, ngồi xuống chuyện trò với nhà tôi. Ông cảm ơn liên tục. bảo đã chờ và bấm chuông mấy hôm nay mà không thấy chúng tôi trả lời. Hôm nay may mắn thấy tôi vừa về đến nên ông phải sang ngay. Mở túi ra, tôi thấy từng chum nho đỏ chin mọng, loại nho Concord rất ngọt và dễ lên men rượu, tôi ngại ngùng bảo ông biếu nhiều quá, ông lại gạt đi, Ông có nhiều lắm, năm nầy nho trúng mùa, ông sang cảm ơn nhà tôi đã cắt cỏ và dọn sân giúp ông.

–        Ông không nên bận tâm, chúng ta là láng giềng, giúp đỡ nhau là chuyện thường mà

–        Tên tôi là Mikhail, gọi tôi là Misha cũng được.

   Nhà tôi cũng tự giới thiệu tên mình, tôi mời ông uống nước  chuyện trò một lúc thì ông ra về. Bây giờ tôi tin chắc là nhà tôi đã chinh phục được cảm tình, phá được bức tường nghi kỵ cuả người hàng xóm nầy rồi.

   Misha sinh và lớn lên ở Nga Sô, tiếng Anh của ông rất nặng giọng, giống như Roman và các giống di dân khác, ông sang đây lo đi làm kiếm sống, không trở vào trường học lại, nhờ siêng năng cần mẫn, giành dụm cho nên cuộc sống của ông rất thoải mái dù đã về hưu mấy năm nay. Vợ ông vẫn còn làm cho một cửa hàng trong vùng Vịnh, hàng ngày ông đưa bà đến bến xe điện, sau đó thì về chăm sóc  vườn tược. Mảnh sân sau của ông trồng đầy cây trái, chưa kể khu vườn rau bên hông nhà. Lúc chúng tôi mới dọn vào, nhìn khu vườn màu xanh rợp bóng của ông rồi nhìn lại sân cỏ cháy tiêu điều của mình mà ngao ngán. Anh nông gia bất đắc dĩ nhà tôi mỗi lần xắn len xuống đào hố trồng cây là càu nhàu đất toàn là đá cuội, không chút màu mỡ, biết bao giờ mới trồng được cây lá xanh tươi ?

 

2  Mối tình thơ

   Con sông Dnieper  biếc xanh lặng lẽ  chia đôi thành phố Kiev, bên nầy khu cư dân phố thị, bên kia bộ máy hành chánh cuả nhà cầm quyền. Đôi mái đầu xanh đang song bước, cả hai đều tràn đầy bao nhiêu ước mộng tương lai .

–        Michail, mai mốt mình sẽ  cùng nhau đi viếng  Roma, Florence, Venise,  sang kinh đô ánh sáng Paris,  thăm phố  nhà chọc trời New York .

–        Ừ ! Anna, bất cứ nơi nào em muốn đến, em muốn ngắm  mặt trời nửa đêm phía bắc, hay tắm nắng ấm miến nam, miễn là chúng ta cùng sánh bước với nhau, cùng chia sẻ những chuỗi ngày đầy hạnh phúc

–        Mikhail, em chỉ cần  một căn nhà nho nhỏ với mảnh vườn con, trồng hoa  hồng trước cửa…

   Đôi mái đầu xanh đầy ước mơ trong khu ngoại ô Kiev, mối tình học trò cũng như  trăm ngàn mối tình thơ dại khác, chan chứa với bao nhiêu bài hát thương yêu, tô thêm sắc màu rực rỡ.

   Kiev là thành phố thăng trầm qua bao nhiêu cuộc chiến tranh, từ khi gót giầy Mông Cổ dẫm nát vào thời Trung cổ cho đến bom đạn cày xới trong Đệ nhị Thế Chiến. Sau các cuộc chiến tranh Kiev mất một thời gian dài để xây dựng lại. Mikhail và Anna, cũng như những  đôi tình nhân trẻ  lớn lên sau cuộc  chiến tranh Thế Giới lần thứ hai, tưởng là được sống thanh bình an lạc, không ngờ Chủ Nghĩa Cộng Sản đã làm đảo lộn tất cả những giấc mơ cuả một cuôc sống bình thường.

   Mikhail theo chân Hồng quân đi miệt mài, cuộc sống cuả quân nhân không hứa hẹn tương lai, trong lòng anh vẫn nhớ người yêu nhỏ ở quên nhà và những giấc mơ chưa thực hiện, anh nuôi hy vọng khi trở về sẽ có được sự nghiệp  để đảm bảo tương lai tốt đẹp hơn.

  Nhưng đời sống không là mơ, cuộc tình thơ theo thời gian cũng nhạt nhoà, người thiếu nữ không thể chờ cho thanh xuân mãn hạn nên đã  lập gia đình cùng người khác . Mikhail không  trách cô ấy, anh an phận với binh nghiệp và cuối cùng cũng lập gia đình và di dân sang Hoa kỳ.

  Mặc dù không kết hôn, nhưng hai người vẫn giữ lại tình bạn, vẫn thư từ thăm hỏi thường xuyên. Anna sau khi tốt nghiệp, lập gia đình đã biến thành cô giáo dạy trong một trường tiểu học thuộc ngoại ô Kiev.  Mikhail  sang Hoa Kỳ lập nghiệp và định cư ở vùng Vịnh.

3   Cuộc tái ngộ

   Kiev là thủ đô và cũng là thành phố lớn của Ukrain nằm về phía bắc trên dòng sông Dnieper. Vào thời Nga Hoàng  cuối thế kỷ mười chin rất phồn thịnh. Ukrain  đã nhiều lần tuyên bố độc lập, cho đến năm 1921 Kiev vẫn còn là thành phố quan trọng trong Cộng Hòa Xã Hội Liên Bang Sô Viết. Sau Đệ nhị Thế Chiến bị bom đạn tàn phá, Kiev lại được phục hồi và tái thiết giữ vững vị trí quan trọng  đứng hàng thứ ba trong Soviet Union.

–        Misha, có bao giờ ông trở về thăm lại thành phố Kiev không?

–        Ukrainian giành lại độc lập một lần nữa vào năm 1991 sau khi Soviet Union tan rã. Tôi có trở về thăm lại quê nhà.

–        Cảm tưởng của ông như thế nào ?

–        Thay đổi nhiều quá, tôi không còn nhận ra

–        Tốt hay xấu ?

–        Tôi không biết nên vui hay buồn, tốt xấu do mỗi góc nhìn, nhưng sự thay đổi không thể phủ nhận, mặc dù đã nghe Anna kể lại rất nhiều, nhưng không thể nào tả được cảm giác khi đứng nhìn dòng sông cũ, con đường xưa. Tôi đi tìm lại những gì đã đánh mất, nhưng chỉ thấy một khoảng trống bát ngát trong tâm hồn

–        Rất khó mà quên được những kỷ niệm ấu thời, tôi cũng là người  tị nạn Cộng sản, năm 1975 tôi rời quê nhà sau cuộc chiến tranh anh em tương tàn, mặc dù  bây giờ tôi không trực tiếp sống dưới chế độ, nhưng tôi còn gia đình hai bên đang sinh sống  bên kia lằn ranh sắt máu đó.

–        Cuộc sống của những người còn lại dưới chế độ Cộng Sản cho dù Âu hay Á cũng không dễ dàng, tôi thông cảm cho hoàn cảnh khó khăn cuả Anna, có nhiều lần ngỏ lời giúp đỡ nhưng bà rất tự trọng, luôn  từ chối.

–        Thế vợ ông có biết chuyện tình của hai người không?

–        Catherine biết chúng tôi vẫn còn liên lạc vì dù sao Anna cũng là người bạn từ thuở thiếu thời, tình cảm chúng tôi  bây giờ chỉ là kỷ niệm đẹp của thời mới lớn thôi. Chúng tôi luôn tôn trọng nhau, vì cả hai đều có gia đình và cuộc sống êm đẹp. Catherine chính là vợ tôi, người đang chung sống và chia sẻ hàng ngày, là mẹ của các con tôi, không ai có thể phủ nhận điều nầy.

–        Catherine có gặp Anna bao giờ không ?

–        Catherine gặp bà ấy một lần thôi vào sinh nhật năm thứ sáu nươi của tôi, đối với chúng tôi là năm rất quan trọng cho một đời người.

–        Vâng, Chúng tôi không mừng ngày sinh nhật cá nhân, ngày đầu năm đối với chúng tôi là ngày mừng thêm một tuổi và là ngày sinh nhật chung của tất cả mọi người, đặc biệt đến năm sáu mươi tuổi thì chúng tôi mừng thọ  Lục tuần rất trang trọng .

–        Năm đó, Catherine đề nghị tôi nên mời Anna sang mừng sinh nhật năm sáu mươi tuổi. mặc dù không hy vọng điều nầy có thể sảy ra, nhưng nhà tôi rất thật tình, chính bà viết thư bày tỏ nhã ý mời Anna sang  Hoa Kỳ thăm chúng tôi .

–        Bà ấy không ghen tương sao?

–        Vợ tôi  thấu hiểu tình cảm của tôi, và bà cũng muốn giành một món quà đặc biệt cho chúng tôi ở cuối cuộc đời.

   Mikhail nhìn vào khoảng trống trước mặt, ánh mắt dịu lại. Trong trái tim cằn cỗi cuả ông le lói chút hơi ấm tình người. Câu chuyện không dừng lại nơi đó, ông chậm rãi tiếp theo

–        Chúng tôi đón Anna ở phi trường khi bà sang Hoa Kỳ,  chính bà ấy cũng không nghĩ rằng còn có cơ hội gặp lại nhau, phải cảm ơn vợ tôi, người đã chu đáo thu xếp mọi việc, từ chuyện thư từ qua lại, giấy tờ xin phép, bà còn cẩn thận mang bó hoa đến đón mừng Anna. Sau khi thăm viếng các danh lam thắng cảnh trong vùng Vịnh, tôi đưa Anna sang thăm Las Vegas, đây chính là cái thế giới thu nhỏ mà tôi muốn đưa bà đi du lịch để hoàn thành giấc mộng thuở thiếu thời. Còn có nơi nào hơn nơi đây, tất cả các thành phố lừng danh trên thế giới đều có mặt trong khu vực sa mạc nầy. Từ thành phố New York vĩ đại cho đến Venice thơ mộng, Ai Cập cổ kính, Paris hoa lệ…

  Chúng tôi trôi theo dòng sông trên chiếc Gondola cuả thành phố nước Venice nghe lại  bài hát trữ tình ngày thanh niên cũ. Chúng tôi lang thang trong bầu trời nhìn ánh sao cuả Roma, ngắm  những cột nước phun theo điệu Valse nhịp nhảng lã lướt. Lời hứa thời thanh niên cuả tôi nay đã thực hiện, cảm ơn người vợ tốt cuả tôi, người đã hết lòng yêu thương tôi mà không hề ghen tuông cùng bóng ma dĩ vãng.

–        Catherine quả thực là một người phụ nữ hiếm có. Ông rất may mắn đó Misha. Thế ông bà có còn liên lạc với bà Anna không ?

   Mikhail im lặng, tôi ngạc nhiên nhìn ông, không biết ông có nghe câu hỏi hay đang  nhớ lại  những hình ảnh đẹp trong khoảng thời gian Anna đang thăm viếng. Một lúc lâu tôi thấy ông thở dài

–        Chúng tôi vẫn thư từ thăm nhau, bà ấy luôn nhắc nhở và cảm ơn vợ chồng tôi đã giúp bà thực hiện ước mơ . Chuyến đi đó là chuyến đi hạnh phúc cuối cùng trong cuộc đời cuả bà, hai năm sau bà chết vì ung thư.

–        Xin lỗi ông, tôi thật không ngờ đã khơi lại chuyện buồn nầy

–        Cuộc đời rất ngắn ngủi, hôm qua đã khuất, ngày mai chưa tới, chúng ta cứ tưởng nhớ chuyện cũ, lo lắng chuyện tương lai mà quên mất cái hiện tại chúng ta còn đang sống đây. Tôi đã an phận với mình, ông cũng lo vui sống đi thôi.

   Tôi nhìn theo Mikhail đang chậm rãi bước, màu nắng chiều in chiếc bóng nghiêng nghiêng trên thảm cỏ xanh. Mỗi con người chúng ta, ai cũng có một khoảng đời thanh niên, có những mơ ước lớn nhỏ, cho dù không cùng chung ngôn ngữ, màu da, sắc tóc, nhưng dòng máu đỏ trong huyết quản luân lưu vẫn chở theo trăm vạn mảng ký ức muôn trùng .

 

Vũ Thị Thiên Thư

 

Vùng đất cô đơn

 

 

 

Mono LakeMono Lake

 

1 Tioga pass

Sau giấc ngủ cuả mùa đông dài, những dòng thác tận mây xanh cuả Yosemite đang trở giấc thả từng đợt cuồng lưu xuống trần. Tháng năm, khi tin tức thông báo Tioga pass vừa mở cửa, chúng tôi đã sẵn sàng. Năm nay, thật ra thì đã sớm hơn mọi năm, vì thường thì độc đạo vượt qua đỉnh Sierra chỉ mở cưả vào cuối tháng năm sau ngày Chiến sĩ Trận Vong [ Memorial Day ]

Từ vùng vịnh hay từ thung lũng Tam biên, để đến Mono county qua ngỏ San Joanquin county thì con đường CA 120 băng ngang qua thung lũng Yosemity và Tioga pass là con đường ngắn và đẹp nhất, nhưng cũng là con đường trắc trở với độ cao tới 9,945 bộ .Tuyết trắng vẫn còn bám dọc theo hai bên đường quanh co, càng lên cao, không khí càng nhẹ, hơi lạnh tiết ra từ đá núi cộng với sức gió biến thành con số của hàn độ đối nghịch lại với chiều cao, dù đã cẩn thận đọc các chi tiết trong bảng chỉ dẫn và đã chuẩn bị áo len dầy, nhưng tốt nhất vẫn mang thêm cả áo chắn gió, vì chỉ cần một cơn gió xoay chiều là nhiệt độ có thể hạ xuống một cách bất thường

Sự kỳ diệu cuả thiên nhiên vẫn có một sức hấp dẫn vô cùng, dù mới đến thăm Yosemite hôm cuối tháng tư, chúng tôi vẫn bàng hoàng dừng lại dọc theo các tảng đá, con suối trong quanh co uốn khúc, hay dòng nước đổ xuống từ đỉnh cao hùng vĩ. Những tưởng chỉ có chúng tôi là những người náo nức chờ Tioga pass thông qua, không ngờ sau lưng chúng tôi còn có một đoàn xe liên tục. Vừa qua khỏi một khúc quanh hiểm trở, nối với đường hầm xuyên qua núi, mắt chưa kịp nhìn quen bóng tối thì trước mặt hiện ra một cánh rừng bát ngát nằm trong thung lũng sâu tít mù, trái tim dường như loạn nhịp, hơi thở nhẹ nhàng buông, khung cảnh trước mặt làm chúng tôi choáng ngộp, không thể diễn tả được cái cảm giác bang hoàng khi đứng trước bức tranh tuyệt mỹ, đúng là tuyệt tác của Thượng Đế.

Tioga Road đoạn đường từ Crane Flat cho đến cửa ngỏ cuả Yosemite bên mạn đông là thành phố Lee Vening dài 59 dặm còn gọi là Scenic Road, ngang qua thung lũng Toulumne với vách núi đá hoa cương sừng sững, rừng thông xanh bát ngát, gương hồ trong như bích ngọc. Từ Olmsted Point nhìn về hướng tây nam là Tenaya canyon , mạn đông là Haft Dome và Hồ Tenaya

Hồ Tenaya ở độ cao hơn tám ngàn bộ, rộng lớn nhất cuả Yosemite, màu nước trong xanh in bóng mây trời cũng là một trong các điềm thu hút khách du, lác đác đó đây những bàn Picnic nằm dưới bóng cây, bên bờ nước, nơi chúng tôi dừng lại ăn trưa và ngắm gường hồ lấp lánh ánh dương.

Tiếp tục Hightway 120 về hướng đông, dọc theo các đường cong diụ dàng chập chùng thông xanh, đến các đỉnh hoa cương cao nhọn như ngọn bút lông cắm thẳng lên bầu trời, ngọn Cathedral Peak cao 10,940 bộ nằm bên cánh phải khi con đường dẫn vào Tuolumne Meadow , chúng tôi chưa kịp hoàn hồn truớc khung cảnh bát ngát cuả nuí tiếp nuí, đồi tiếp đồi, đến khi vừa qua khỏi cổng Tioga thì thêm một lần nữa nhìn lên đỉnh Tioga Peak với 11,526 bộ hùng vĩ hiện ra. Con số không thể hình dung được chiều cao, nhà tôi mang bài học còn thuở phi hành nhắc lại, ngay cả những ngày còn bay ngang qua ruộng đồng bát ngát thì độ cao cũng chưa qua khỏi mười ngàn bộ huống gì mười một ngàn bây giờ. Thật ra thì xe đang lăn bánh liên tục cho nên tôi không có cái cảm giác trồng rỗng dưới chân như khi theo nhà tôi leo lên chiếc trực thăng ngắm cánh đồng mùa thu cuả Brown County Indiana mấy năm trước.

Bỏ lại phía sau ngọn nuí đá hoa cương cao ngất, quanh co qua them mấy ngọn đèo, từ con dốc cao nhìn xuống khung cảnh trước mắt làm tôi từ ngôn biến mất : Mono Lake.

 

Hình đính kèm Hình đính kèm :

1 Half Dome

2 Tiogapass

3 Mirror lake

 

 

 

2 Mono Lake

Đây là điểm đến mà chúng tôi chờ đợi từ đầu mùa xuân. Vừa qua khỏi khúc quanh cuối cùng, trước mắt chúng tôi là gương hồ soi bóng trời xanh bát ngát. Điều không thể hình dung được, trên đỉnh cao hơn sáu ngàn bộ, Mono Lake là hồ nước mặn tồn tại bấy lâu nay. Năm trước đây khi ngang qua Great Salt Lake của Utah, [ Cả hai giống như hai chị em, không có lối thoát ra biển, cùng nước mặn, cùng thể chất.] trông thấy màu muối trắng lấp lánh tận chân trời, tôi đã không thể hình dung được sự diệu kỳ của tạo hóa. Giữa cánh đồng bát ngát nước mặn từ đâu đến ? Cũng như tự bao giờ “ Thương hải biến vi tang điền “ [ Biển xanh biền thành ruộng dâu] bây giờ trái lại, đồng cỏ biến thành biển khơi như người xưa đã nói.

Muà tiếp mùa, những phân tử nước trong Mono Lake theo vòng luân hồi bốc hơi tha phương lưu lạc trong không gian, niú kéo nhau thàng những áng mây thiên hình vạn trạng. lang thang trên đỉnh Seirra, qua Tiaga Pass thay chiếc áo tuyết trắng tinh tạm trú chờ khách du chiêm ngường, sang mùa xuân theo hơi ấm cuả tiết trời, một lần nữa biến dạng thành những dòng thác từ tận đỉnh trở xuống các dòng sông khe suối tìm đường trở lại hồ khai nguyên.

Khi chúng tôi theo hướng nam Hightway 395 đi về Mono lake, những đám mây xám đen từ chân trời đang kéo về. Thời tiết cuả vùng hồ nầy thay đổi bất thường, có khi đang nắng hơi nước trong hồ bốc lên gặp không khí lạnh trên cao biến thành những cơn mưa phùn li ti vội vã. Từ trong xe bước ra, nhiệt độ thay đổi có thể cách nhau từ mười đến hai mươi độ Fahrenhait.

Dừng lại ở South Tufa , khu vực đá ong kết tụ do phản ứng hoá học trong tiên nhiên, trông từ xa xa như những thành quách điêu tàn đang thi gan cùng tuế nguyệt. Cổng vào không có nhân viên kiếm soát, nhưng nhìn dòng người xếp hàng ghi phiếu tự trả tiền lệ phí nhà tôi chép miệng “ only in America “ hành động tự giác thật cao. Sau khi trả tiền, chúng tôi theo con đường mòn nhỏ đi về phía các bãi san hô trên cạn, không khí nồng nặc mùi diêm sinh, nước hồ mặn hơn nước biển do muối tích lủy sau khi hơi nước bốc hơi tồn tại. Độ mặn nầy gấp 2.5 lần và độ Alkaline gấp 100 lần so với nước biển, chấm ngón tay vào nước có cảm giác nhờn nhờn, nếm mặn đắng do Sodium Cloride [ muối ] và Sodium bicarbonate [ Baking soda ]

Mực nước trong hồ Mono hạ thấp xuống 1.3 feet do hạn hán mấy năm nay. Năm trước, mực nước ghi lại chỉ còn ở 6382.4 trên mặt nước biển , so với năm 1989 mực nước hồ thấp nhất được ghi lại dưới 9377 feet. Sự thay đổi của mực nước hồ cùng sức gió mùa thu và đông ảnh hưởng rất lớn đến sự sống trong lòng hồ. Tuy không có cá, nhưng có một giống tép Brine sống nhờ vào dinh dưỡng của nước hồ. Ngoài ra còn có các giống chim chóc về đây sinh sản vào mùa xuân [ Sage Thrasher, Sage, Savannah, Brewer’s Sparrow].

South Tufa là khu vực đặc biệt không thể bỏ qua khi viếng Mono Lake. Khoáng chất kết hợp với nước, đặc biệt là nước mặn, làm thành một loại đá vôi hình thể rất lạ lùng, Tuy không cao lớn như các tảng đá ong nằm trong vùng Vịnh Hà Tiên hay xa hơn nữa trong Kỳ quan Vịnh Hạ Long, nhưng những tuyệt phẩm nầy không kém phần tráng lệ. Cũng không giống như các loại đá vôi kết hợp trong vùng suối nước nóng. Nằm dọc theo bờ hồ Mono, những tinh thể chồng chất lên nhau, theo các lượn sóng kết hợp với sức gió xây thành từng lâu đài nối tiếp với tháp canh cao vút , bên cạnh đó là những thành phố nổi san sát nhà cửa , Càng nhìn càng thấy sự kỳ diệu cuả thiên nhiên.

Chiều xuống , chỉ tiếc những đám mây xám kia đã lấy mất ánh hoàng hôn rực rỡ trong óc tưởng tượng của tôi. Những đợt sóng lớn xô vào khu vực South Beach trăm ngàn bọt sóng bay như hoa gòn trong gió lộng.

Ngày mai, chúng tôi sẽ đến thăm miệng núi lữa Panum , suối nước nóng Benton và thánh phố chết Bodie.

Cảm ơn Thân sinh, người đã truyền lại cho tôi lòng yêu mến thiên nhiên, cũng như người bạn đường đã đưa tôi đi khắp nơi .

Vũ Thị Thiên Thư

Hình đính kèm :

4 Mono lake

5 South Tufa 1

6 Tufa tower.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hải đăng trong sương mù

 

 

 

 Hải Đăng

Ngọn hải đăng trong sương mù

Point Reyes Light House

 

Từ những ngày bập bềnh trôi trên dòng biển đông dậy sóng, hình ảnh ngọn hải đăng là ánh sáng đưa đường luôn gây một niềm xúc động trong tôi. Mỗi lần đến thăm một địa phương hay thành phố biển nào đó, đọc trên bản đồ thấy có dấu hiệu hải đăng là tôi luôn tìm đến để thăm viếng. Lần nầy đi thăm Marin County nằm phía bắc cuả thành phố San Francisco cách Golden Gate một giờ lái xe cũng không nằm ngoại lệ.

Để đến Point Reyes National Seashore có thể theo hướng bắc Hightway 1, con đường ngoằn ngoèo qua nhiều đèo dốc có đoạn chạy sát gành đá cheo leo, có đoạn băng qua vùng thảo nguyên bát ngát, nơi từng bầy bò sữa đứng nhai cỏ an lành . Dấu hiệu cuả sự sống đã có từ ngàn năm trước , người thổ dân cuả bộ lạc Miwok đã sống trong vùng bán đảo nầy, họ sống nhờ vào săn bắn, ngoài muông thú còn có hào và cá hồi của vùng vịnh Tamales .

Năm 1579 Sir Francis Drake là người Âu Châu đầu tiên đã đặt chân lên vùng đất nầy, ban đầu người Milwok và người Âu châu chung sống với nhau trong hoà bình, giống như người Aztec và Cortes. Dân số ban đầu tương tự như con số cuả cư dân hiện nay, họ có hơn một trăm làng mạc trải dài theo bờ biển cuả Point Reyes. Mãi đến đầu thế kỷ 19, người Mễ Tây Cơ đến đây lập nông trại canh tác và chăn nuôi, tiếp theo đó là người nông dân Hoa Kỳ đã kỹ nghệ hoá chăn nuội và nông nghiệp khai thác vùng đất màu mỡ nầy cho đến bây giờ.

Vì địa thế đặc biệt cuả Point Reyes cộng với thời tiết , sương mù quanh năm bao phủ, tàu bè sảy ra tai nạn thường xuyên, đến 1870 thì Chính phủ Hoa Kỳ cho xây đài kiểm báo, ngọn hải đăng cho vùng biến trắc trở nầy. Đài kiểm báo phát ra tín hiệu đặc biệt để cảnh giác và báo động khi sương mù bao phủ, tàu bè không trông thấy ánh sáng cuả ngọn hải đăng. Point Reyes còn là vùng gió nhiều nhất bên bờ Thái Bình Dương và đứng hàng thứ nhì về sương mù quanh năm cuả lục địa Bắc Mỹ. Muà hè sương mù bao phủ liên tục có khi chỉ trông thấy được trong vòng một trăm bộ [ 100 feet ] , Point Reyes giống như một bán đảo nhỏ chạy dài hơn mượi dặm ra biển, rất nguy hiểm cho tàu bè ra vào vịnh San Francisco, do đó đã sảy ra nhiều tai nạn chết người. Cho dù ngọn hải đăng kết hợp với đài kiểm báo làm việc liên tục nhưng vẫn không thể ngăn chặn được tai nạn cho tàu bè, trạm cấp cứu ở North Beach được xây thêm vào năm 1890, nhân viên kiểm báo làm việc từ bốn đến sáu giờ liên tục hàng ngày quan sát các dấu hiệu cấp cứu cuả tàu bè lâm nạn và cứu các nạn nhân bị cuốn đi theo dòng cuồng lưu lạnh buốt. Đến 1927 thì trạm cấp cứu mới được xây trên vịnh Drakes , gần Chimey Rock và hoạt động cho đến 1968. Hiện nay thì toàn thể vùng đất nầy đã được bảo vệ thành di tích lịch sử cuả quốc gia.

Ngọn hải đăng ở Point Reyes nầy làm việc cho đến 1975 thì được US Coast Guard thay thế bằng hệ thống đèn tự động, giống như hầu hết các ngọn hải đăng trên lảnh thổ Hoa kỳ. Nguyên nhân chính là do tiết kiệm nhân lực và dùng đèn điện ít tốn kém hơn. mặc dù ngọn đèn chỉ thắp vào lúc mặt trời lặn cho đến rạng ngày, nhưng đó là công việc cuả hai mươi bốn giờ liên tục, người gác đèn và ba nhân viên chia nhau mỗi phiên sáu tiếng đồng hồ. Mỗi ngày, nửa tiếng trước khi mặt trời lặn, người gác đến thắp sáng ngọn đèn, sau đó kéo dây đồng hồ quả lắc nặng 170 cân Anh, mất hai giờ hai mươi phút thì quả lắc sẽ chạm đáy sâu 17 feet, hệ thống nầy sẽ làm cho ống kính che ngọn hải đăng xoay quanh mỗi năm giây. Ánh sáng chớp loé nầy tạo thành đặc điểm cuả ngọn hải đăng để giúp cho tàu bè dễ nhận ra . Công việc thầm lặng nầy cứ mỗi hai giờ hai mươi phút liên tục suốt đêm, chưa kể tim đèn phải luôn luôn giữ một mức độ cố định để ánh sáng của ngọn đèn luôn luôn cháy đều.

Mặt kính che ngọn hải đăng Point Reyes nầy được chế tạo rất đăc biệt, và là phát minh cuả khoa học gia Augustin Jean Fresnel [ Pháp Quốc ]. Ông đã áp dụng lý thuyết Quang học để chế tạo ra khung kính nầy. Trước đây ánh sáng xuyên qua khung kính thuỷ tinh chỉ có thế trông thấy được trong vòng mười hai dặm, kính Fresnel bằng lưu ly có thể thấy được tận chân trời [ hai mươi bốn dặm ]. Ánh sáng cuả khung kính Fresnel chiếu ra hai mươi bốn mặt in xuống mặt biển như vòng bánh xe, toàn khối kính nặng 6000 cân, xoay theo một chu kỷ chớp loé mỗi năm giây đồng hồ, tạo thành dấu hiệu đặc biệt rất dễ nhận ra cho tàu bè qua lại.

Người gác hải đăng hàng ngày còn phải lau chùi mặt kính che ngọn đèn, đánh bóng các đường viền bằng đồng, chưa kể sau mỗi phiên gác phải leo lên 300 feet dưới sức gió thường xuyên từ 60 đến 133 dặm một giờ . Vì vị trí đăc biệt cuả gành đá trên chóp đỉnh Point Reyes cao hơn sáu trăm feet sương mù thường xuyên, ngọn hải đăng phải nằm dưới màn sương do đó phải đặt trên mõm đá cao cách mặt biển chỉ có một nửa cuả Point Reyes . Công việc nầy đòi hỏi một sức kiên nhẫn chiụ đựng sự tĩnh mịch, chưa kể thường xuyên lên xuống các bậc thang gỗ tương đương với 30 tầng lầu trong sức gió mảnh liệt quả là điều không dễ dàng.

Tuy vậy vẫn có người âm thầm làm việc , giữ gìn ánh sáng cho ngọn hải đăng bất chấp thời tiết bất thường, cuổng phong thịnh nộ, giúp cho tàu bè ra vào trong vịnh San Francisco sẽ tránh được sự nguy hiểm cuả vùng gềnh đá trắc trở cũng như vòng sương mù ma quái cuả Point Reyes.

Theo con đường Sir Francis Drakes hai mươi dặm về hướng nam và phải vượt qua con dốc cao quanh năm gió lộng pha sương mù lạnh buốt , sau đó trèo 300 bậc thang để xuống tận ngọn hải đăng. Đứng trên đài quan sát, chỉ có thể trông thấy ngọn hải đăng thấp thoáng sau màn sương. Che chở dưới mõm đá, là nơi trú ngụ cuả từng bầy hải âu và hải cẩu. Trở ra biển khơi, là con đường thiên di cuả từng đoàn cá voi theo dòng nước xuôi ngược bắc nam cuả Thái bình dương mỗi tháng giêng đến tháng tư.

Dọc theo con đường dốc dẫn lên đỉnh quan sát, chui qua hàng cây cổ thụ đang nghiêng mình theo chiều gió, nhìn thấy màu đỏ rực cuả các tảng đá gợi sự tò mò trong tôi, khi đến gần nhìn kỷ, tôi mới thấy đó là một giống rêu bám vào thân đá, chống chọi với sức gió và sương ẩm quanh năm, tôi đã nhìn thấy bao nhiêu là hoa dại theo đường đi, mội nơi mỗi sắc, nhưng thiên nhiên vẫn là niềm bí hiểm vô cùng, có đi đến mỏi gối mòn chân, cũng không thể bảo là mình đã khám phá hết , thật là kỳ diệu.

Tạm biệt ngọn hải đăng

Vũ Thị Thiên Thư

 

 

 

 

 

Livermore/ Winecountry

Livermore

 

 

Livermore

 

 

– Mình ơi!

– Lại muốn đi đâu ? Nghe cái giọng ngọt như mía lùi là biết muốn nhờ cậy chuyện gì đây.

Đúng là chưa kịp nói nhà tôi đã hiểu ý, mùa đông vùng Central Valley thời tiết rất dễ chịu so với Ngũ Đại hồ. Cuối tháng hai mà đã ấm áp, ban ngày có khi hơn sáu mươi độ Fahrenheit . Tuần trước mang hai chiếc xe đạp ra Vịnh Bán Nguyệt theo dọc bờ biển , ngày nắng ấm nhưng gió lớn nên chỉ đi được có hơn mười dặm phải cất xe đạp lên rồi vào thăm thành phố nhỏ ven biển. Theo dự đoán thời tiết thì tuần nầy sẽ mưa, như vậy không nên đi xa, Livermore bike trail xem ra hợp lý nhất.

Nhà tôi lại ngồi vào bàn viết, thói quen hơn ba mươi năm làm việc không thể bỏ đi một sớm một chiều, mỗi lần sắp đi chơi. Cho dù chỉ hơn nữa giờ lái xe, anh cũng cẩn thận nhìn bản đồ, xem các chi tiết và chấm tọa độ, định vị trí…Trong khi đó tôi chỉ cần mang máy hình, một ít thức ăn nhẹ trong xách tay là có thể lang thang cả ngày.

Livermore cách San Francisco gần năm mươi dặm về hướng đông, theo đường I-580, thành lập bời Wiliam Mendenhal, năm 1869. Trước đó do bộ lạc Costonoan Indians khi còn nằm chung trong khu vực San Jose Mission. Robert Livermore là tên cuả một người thủy thủ từ anh Quốc đến thám hiểm vùng Monteray, ông yêu thích vùng thung lũng nầy nên gọi đó là nhà của mình, sau khi được cấp quyền sở hữu chủ, ông lập ra Rancho la Positas là khu vực bao trùm cả thành phố Livermore hiện nay.

Livermore là một trong vùng ba thung lũng [ Tri Valley : Livermore, Dublin, Pleasanton ] và cửa ngỏ của Central Valley. Khí hậu tương đối ôn là thích hợp cho trồng trọt chăn nuôi, là vùng nổi tiếng lâu đời nhất của tiểu bang California về trồng nho làm rượu Wine. Kỷ nghệ làm wine bắt đầu từ năm 1840. Các nhà nổi tiếng như :CH Wente, James Cocannon, Charles Wetmore đã thành lập winery từ 1880, đến 1889 thì Livermore Valley giành được Huy chương vàng đầu tiên cho Hoa Kỳ ở Paris, từ đó Hoa Kỳ có tên trên bản đồ sản xuất Wine của thế giới.

– Bây giờ em muốn đi dường dài hay ngắn đây?

– Có đường nào cảnh đẹp không?

– Không biết rõ, nhưng muốn vậy thì theo đường mòn chứ không ngang qua phố thị được

– Em chưa cần vào phố đâu,

– Vậy thì đi Arroyo Mocho trail , nếu còn sức thì sẽ đi tiếp Isabel.

Sau khi ăn sáng và chờ cho sương tan, chúng tôi lại mang hai chàng ngựa sắt lên chiếc xe vận tải nhỏ, đã sau giờ đi làm nên xe cộ thưa thớt hơn. Qua ngọn khỏi ngọn đồi Altamon, chợt nhớ bà bạn mới ví von đó là ngọn đồi trị giá trăm ngàn, thoạt nghe tôi không hiểu tại sao, bà cười giải thích

– Qua khỏi ngọn đồi đó vào Livermore thì mỗi căn nhà tương đương với Tracy hay Mountain House bà sẽ phải trả thêm cả trăn ngàn nữa để mua.!! Bởi vậy mới gọi là ngọn đổi trăm ngàn.

Trước khi rời xa lộ vào phố thị, chúng tôi đi ngang qua một vùng mới phát triển nằm bên cạnh khu Paragon Premium outlet mới khai trương hồi mùa Lễ Tạ Ơn năm 2012. Cơn sốt mua sắm của giới tiêu thụ đã hạ dần, khu đất trống trải trước đây làm bãi đậu xe tạm không còn thấy chiếc nào. Con phố mới khang trang đẹp đẽ dẫn vào phố chính của Livermore, tôi nhắc lại lời hứa của anh khi chúng tôi còn đang lang thang đi tìm cành xây tổ “ kỳ sau mình ghé lại đây lang thang một chuyến hén !” cái hẹn chưa thực hiện, tất bật với cuộc thiên di trước mùa đông , tạm an nên tôi muốn tận dụng sở trường của chàng ngựa sắt là quà tặng của con gái út. Con bé không dấu được ngạc nhiên khi thấy mẹ lẻo đẻo theo hai Bố con đi dọc theo Lake Shore Drive thành phố Chicago trên chiếc xe đạp cà tàng. Chiếc xe đạp mới nầy rất nhẹ, có thể vượt đường trường, leo dốc, tôi đã đi đoạn đường mười hai dặm trong Vịnh Bán Nguyệt tuần trước đó mà chưa hề thấm mệt.

Phố chính của Livermore rất khang trang, dọc theo hai bên đường là những giàn hoa, xe cộ nối đuôi nhau chầm chậm, qua các cửa hàng bán đồ cổ nho nhỏ, quán cà phê với bàn ghế dưới tàng dù bên hàng hiên. quay ngược về bên trái nhìn thấy nóc chuông nhà thờ màu trắng bên kia, tôi nghị bụng khi trở về sẽ ghé qua để ghi lại.

Arroyo Mocho trail dài khoảng mười dặm, bắt đầu gần Shadow Cliffs Regional Recreation Area cuả Pleasanton theo dòng Arroyo Mocho quanh co uốn khúc vào Livermore, xuyên qua các công viên Robertson, Sunken garden, Robert Livermore. Tuy không phải là con đường chính nhưng rất tiện lợi để tránh nạn kẹt xe băng qua thành phố. Từ phía Tây, con đường mòn ngoằn ngoèo chạy phía sau cuả khu nhà cửa mới xây, vòng xuống con đường sắt và chiếc cầu SP đã từ lâu không còn sử dụng. Sau đó tiếp tục phía sau trường Trung Học Granada, công viên Mocho, Ferrario winery building còn gọi là Mayflower, Retzlaff Winwery… Tuy băng qua nhiều con đường rộn rịp, nhưng hầu hết có thể đi dưới gầm cầu cạn, trừ những lúc mưa lũ làm mực nước cuà Arroyo Mocho dâng cao hơn thì không thể dùng, phải vượt qua đường phố chính. Khoảng đường nằm trong Livermore từ Almond Ave school dài chừng năm dặm, có nhiều bãi cát đá dọc theo dòng nước chảy, muông thú tự do lang thang, ngoài các chú sóc con, còn có cả các chàng gà tây thư thả dạo chơi, con đường nầy rất thích hợp cho trẻ em . Hầu hết đều được trải đá và đắp nhựa đường , ngoài xe đạp còn có người đi bộ, chạy thể dục . Chỉ tiếc là đoạn đường nối vào Isabel đang đóng cửa cho các toán điện lực sửa chữa nên chúng tôi quay trở lại ,

– Alden Lane Garden show trước mặt đó. Có muốn ghé qua xem không?

– Dĩ nhiên là ghé rồi.

Anh biết là tôi không thể bỏ qua khi thấy tấm biển quảng cáo ,bước qua cổng, trước mắt tôi là gốc cây sồi số tuổi có thể hơn cả trăm, hàng hàng lớp lớp cây đang chuẩn bị bán ra ngoài, chưa kể từng giàn hoa đủ màu đủ sắc xếp theo từng khu vực, mỗi khu có dấu mũi tên hướng dẫn. Khu vườn cây ăn trái, cây cảnh, khu chưng bày các hồ nước với vòi phun, khu vườn mẫu và các chậu sành đủ màu sắc kích cỡ…Đây đúng là phần thưởng sau hơn mười dặm trên lưng con ngựa sắt.

Tạm biệt Livermore.

 

 

Fresno Con đường hoa nở

duonghoa

 

 

Fresno Con đường hoa nở

[ Tuần Báo ]  Viet Tide

 

Tôi mang dòng máu phiêu lưu và yêu thiên nhiên, hoa lá cỏ cây từ thân sinh, còn thêm cái may mắn có người bạn đường cũng cùng chung ý thích. Ngày mới quen nhau, nhìn cuốn sách gối đầu giường, nhà tôi hỏi ngoài đọc sách còn có thứ gì em yêu thích ? Tôi mĩm cười “Đi cho thấy đất trời bao la”

Như chim chắp cánh, như lời hứa với nhau khi thành hôn, sau khi các con đã trưởng thành, bầy chim non đã rời tổ để bay vào bầu trời bao la, chúng tôi làm cánh nhạn theo nhau tìm về vùng trời ấm áp.

Ngày vừa rạng, mang hai chiếc xe đạp cột lên chiếc vận tải nhỏ ( Ford Ranger ) trực chỉ phía nam Golden State Hightway 99 về hướng Fresno . Từ thung lung lá rơi nơi chúng tôi xuất phát sẽ mất gần hai giờ lái xe, một nửa đoạn đường nầy trước đây chúng tôi đã xuôi nam ngày đưa con bé út đi thăm Hải học viện ờ thành phố biển Monteray.

Fresno county nằm trong Central Valley, phía Bắc thành phố Bakerfield và nam thủ phủ Saccramento , là thành phố lớn thứ năm cuả tiểu bang California. Fresno trước đây do người Tây Ban Nha tìm thấy từ 1846 sau cuộc chiến tranh Mexico thì vùng đất nầy thuộc về Hoa kỳ . Fresno từ tiếng Spanish có nghĩa là Ash là tên cuả một loại cây mọc trong vùng đất nầy dọc theo dòng sông San Joaquin

Tháng hai, bắt đầu từ những nụ hoa Hạnh nhân lấm tấm trên cành, Mùa đông ngắn ngủi qua nhanh như giấc ngủ trưa cuả ngày tháng, cây cỏ trở mình, những đốm hoa Poppy màu cam điểm thêm những nét chấm trên bức tranh tuyệt mỹ. Đầu tháng ba, những nụ hoa Đào điểm màu hồng trên những cành khô, như đôi má hây hây cuả cô thiếu nữ cười vui trong nắng mới.

Bỏ lại sau lưng thành phố Modesto, dọc theo Golden State hightway về hướng nam, từng cánh rừng hoa nối tiếp nhau, tựa lưng rặng Sierra hùng vĩ. Con đường dài 93 dặm Anh lái xe mất hơn một giờ ba mươi phút. Qua những thành phố nhỏ, Turlock, Atwater Merced…Tấm bảng quảng cáo lớn bên vệ đường đập vào mắt tôi Viện Bảo tàng phi cơ cuả thành phố Atwater, tôi đoán là sẽ nằm trong cái danh sách “ Những nơi phải thăm viếng trước khi nhắm mắt “ cuả nhà tôi. Cái danh sách dài thậm thượt đó chưa biết bao giờ mới chấm dứt, có chăng là đến kiếp lai sinh.

Madera cách Fresno mười dặm , là thành phố nhỏ đầu tiên chúng tôi dừng chân lại, theo các chi tiết chỉ dẫn, nhà tôi đi tìm khu vườn Nhật Bản Shin zen Friendship Garden, đây là một trong các điểm mà chúng tôi muốn viếng, và lý do tại sao chúng tôi chọn ngày Chuá Nhật để đi vì đó là ngày vườn mở cưả cho khách du. Lệ phí là ba đồng một người, khu vườn xinh xắn với các lối đi quanh co, có cầu đá, suối nước theo mô hình Nhật Bản , bầy cá Koi đang tung tăng lội dước chân cầu, bên kia là khu vực nuôi chim Khồng Tước [ Công ], anh chàng đầu đàn to lớn bệ vệ , lông đuôi sặc sở dài hơn ba lần chiếu dài cuả thân mình, đang thư thả dạo chơi. Nghiêng mình bên hồ nước nhỏ hoa mộc lan trắng noản nà . Vì không có thời gian nhiều nên không dừng lại lâu hơn.

Thành phố Fowler kế tiếp là trạm đầu tiên chúng tôi chọn để bắt đầu cho con đường hoa nở. Nơi đây du khách có thể ăn thử trước khi mua các loại nho khô, hạt, trái cây đang mùa. Ngoài ra còn có thể đặt tặng phẩm gói hàng từ các nhà sản xuất. Kế tiếp là thành phố Selma còn gọi là Thủ đô cuả nho khô trên thế giới [ Raisin Capitol of the World ]

Gạch nối giữa các thành phố là từng khu rừng hoa ngút ngàn .Mỗi loại hoa cho trái cây màu sắc khác nhau, từng khu vưòn nối tiếp nhau họp lại thành bức tranh sắc màu tuyệt mỹ

Hoa Hạnh nhân màu trắng, thường trồng nhiều giống chung một khu vực để thụ phấn hoa nhờ các loài ong mật, Thường thì hoa kết trái và gặt hái theo phương pháp kỷ nghệ từ tháng tám đến tháng mười.

Hoa mận [ Plum ] màu trắng, có hơn 200 giống, phải trồng ít nhất là hai giống chung một vườn mới có thể thụ phấn và cho trái, mùa hái từ tháng năm đến tháng chín.

Hoa mơ [ Apricot ] màu hồng, có khoảng 12 giống , trồng theo lối kỷ nghệ , mùa hái trái từ hai đến ba tuần cuối tháng năm.

Hoa Đào [ Peach, Nectarine ] từ màu hồng sang đỏ thắm có hơn trăm giống nở cùng lúc. Muà trái chin bắt đầu từ giữa tháng năm cho đến tháng mười.

Hoa Táo [ Apple ] màu trắng, có khoảng 6 giống, thường trồng theo lối kỷ nghệ và muà hái trái từ tháng tám đấn tháng mười một

Hoa Cam, bưởi , chanh không thể thiếu được trong các khu vườn lớn qui mô cho đến từng tư gia cuả quận lỵ, màu trắng nuốt lẫn vào màu lá xanh, hương thơm ngào ngạt.

Fresno nổi tiếng với nông nghiệp không chỉ riêng ở California, các thứ cây trái sản xuất khắp thế giới do khí hậu cùng kỷ thuật trồng tiả rất hiện đại, Từ các hàng cây thẳng tắp, đều đặn cành lá đan nhau cho đến những loại ong mật được dưỡng nuôi để thụ phấn hay để lấy mật ong cung cấp cho giới tiêu thụ.

Con đường hoa mùa xuân nầy, ngoài vẻ đẹp thiên nhiên kỳ diệu còn phục vụ tối đa cho đời sống hàng ngày cuả nhân loại.

Đoạn cuối cuả con đường trước khi rời Fresno, chúng tôi còn một điểm ghé lại nữa đó là Nông Trại Simonian, một bất ngờ thích thú, vào sân đâụ xe, bên dưới cái chong chóng gió kiểu Hoà lan là một loạt máy cày loại cổ, nhìn vào các năm sản xuất, có chiếc tuổi chào đời đã gần trăm năm, Cạnh đó còn có những chiếc xe bánh gỗ sử dụng từ thời nội chiến.

Tạm biệt Fresno.

 

 

Vũ Thị Thiên Thư

 

Ảnh đính kèm : Vũ Thị Thên Thư

1 Nội chiến Wagon

2 Dựa lưng rặng nuí Sierra

3 Hạnh nhân ngút ngàn

4 Bát ngát trời hồng

5 Mộc lan [ water lily magnolia ]

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Khai mùa

Khai mùa

 

 

Ta mời nhau, chút quyến luyến của một thời cắp sách, tay trong tay mắt ngời xáng tin yêu, nắng hồng lên tô sắc thắm muôn chiều , hoa đã nở chên trần gian khai hội

Chân bước khẻ tay nâng tà áo lụa , áo trắng hiền gói một thuở mộng mơ, lời tình ca tiếng vụng dại học trò, mang theo cả một trời thơ nguyên thuỷ, tay ngón nhỏ xanh xao đời hồ mị , bước bình yên qua mấy ngõ hẹn hò…

 

*

Rồi một ngày, con chim nhỏ chợt bay về gọi nắng sáng líu lo , chúa Xuân vừa mở đôi cánh cổng giao mùa…

Trải một chút nắng ấm lên thảm cỏ nhung xanh , rắc một ít sương long lanh trên nụ hoa vừa hé , chúa Xuân làm những công việc đầu tiên trong niềm hân hoan, trong ánh sáng ngập tràn …

Ta mời nhau trên đường về trẩy hội mùa Xuân, ta mời nhau, cùng hát lại lời tình ca êm ái, bằng tiếng hát trẻ thơ ngây dại, bằng lời ca thánh thót tuổi học trò, lời chan hòa niềm tin mới trên môi khô trong ánh mắt yêu thương nhau bừng sáng

Lối đã mở, đường thênh thang hoa gấm, chúa Xuân vừa ban nắng ấm xuống trần gian , ta bên nhau trong vũ khúc nhịp nhàng…khu vườn mới nở bừng niềm hy vọng, bờ môi khô rực rỡ đoá hoa hồng, cung nhạc trầm réo rắt giữa từng không, hòa muôn tiếng chim muôn vừa ca tụng..,

Hãy im lặng nghe chúa xuân truyền lệnh , trăm hoa thơm bừng nở dưới măt trời, trăm nắng hồng sương sớm trải muôn nơi ,cho trời đất đồng hoan ca, cho trời đất giao hoà ,cho lòng người phơi phới , cho yêu thương thiết tha…

*

Ở một ngôi trường có lũ học trò áo trắng hồn nhiên, có lũ học trò chim non ríu rít , trong những đôi mắt niềm chờ mong tha thiết , chúa xuân về nao nức tiếng quyên ca …

Ở một con đường có hàng cau xanh mướt lá mùa đông, có người em gái nhỏ má môi hồng, trời gió bấc tung hương cau thương nhớ, sớm mai ngày in trong mắt bâng khuâng, sớm mai ngày lời thanh ca lồng lộng…

Ở một khu vườn đầy kỷ niệm , có ngôi nhà nao nức chim khuyên , đôi cánh nhỏ mơ trời cao đất rộng, hồn nai tơ ngơ ngác sống bình yên. Ơi chúa xuân ! Xin trải rộng thảm cỏ nhung xanh mượt, ru thiên tiên trong giấc mộng tuyệt vời , dỗ dương trần giữa cung nhạc chơi vơi, bỏ tội lỗi muôn đời bóng tối…

Ở một phương trời xa, có em ta vẫn sống đời hiền hoà , có em ta vẫn say mộng đường hoa, em có hay chúa Xuân vừa đến, em có hay mắt mõi ngắm hoàng hoa, em có hay trời đất đã giao mùa, ta còn trong nổi thương nhớ cách xa …

*

Ta mời nhau , dù áo trắng đã ngủ vùi trong dĩ vãng, dù ngày xanh đã xa khuất sương mù, dù tháng ngày vẫn xa cách , phù du, vẫn tin tưởng, vẫn chờ mong niềm vui mới, vẫn tha thiết đón chào ngày khai hội, muôn hoa thơm vừa hé cánh mượt mà…

Chân bước nhẹ giữa trăm tiếng trầm ca, mắt vẫn ngước nhìn, nhau dù xa lạ,

xin hãy mở đường vào vườn hoang dã, xin cùng nhau chia sớt chút hương trầm, xin đưa về ngày chào giấc trăm năm, nơi ngà ngọc dỗ đời bình an ngủ…

Nào băng giá mùa đông, hãy qua đi cho ngày tháng thêm hồng, hãy qua đi cho chúa Xuân bừng sống,cho trầm hương bay vút giữa từng không, cổng đã mở mời theo nhau cùng bước…

 

Vũ Thị Thiên Thư

[ 1973 ]